LECTIO DIVINA THỨ 6 SAU LỄ TRO NGÀY 28-02-2020 : Mt 9, 14-15

 

“When the bridegroom is taken away from them, they will fast” “Khi tân lang ra đi, bấy giờ họ mới ăn chay”
1) Opening prayer 1) Kinh khai mạc
Lord of the Covenant, we have not to fear your judgment if like you we become rich in mercy and full of compassion for our neighbour. May we not only know that you ask us but practice with sincere hearts to share our food with the hungry and to loosen the bonds of injustice, that through us your light may shine and your healing spread far and wide. Be with us in your goodness. We ask this through Christ our Lord. Lạy Chúa là Thiên Chúa của Giao Ước Chúng con không phải lo sợ sự phán xét của Chúa Nếu chúng con giống như Chúa, trở nên giàu lòng thương xót Và đầy lòng nhân ái với người xung quanh chúng con. Nguyện xin cho chúng con biết rằng Chúa không những chỉ đòi hỏi chúng con thực hành, Mà còn phải thực hành với tấm lòng chân thành Để chia sẻ thức ăn của chúng con với những người nghèo đói Và nới lỏng những trói buộc của bất công, Để qua chúng con, ánh sáng của Chúa có thể tỏa sáng Và việc chữa lành của Chúa được lan trải rộng rãi. Xin Chúa hãy ở cùng với chúng con trong lòng nhân ái của Chúa. Chúng con cầu xin điều này nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
2) Gospel Reading : Matthew 9, 14-15 2) Tin Mừng : Mátthêu 9, 14-145
Then John’s disciples came to him and said, ‘Why is it that we and the Pharisees fast, but your disciples do not?’

Jesus replied, ‘Surely the bridegroom’s attendants cannot mourn as long as the bridegroom is still with them? But the time will come when the bridegroom is taken away from them, and then they will fast.

Bấy giờ, các môn đệ ông Gioan tiến lại hỏi Đức Giêsu rằng: “Tại sao chúng tôi và các người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?”

Chúa Giêsu trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay.”

3) Reflection 3)  Suy Ngắm
• Today‟s Gospel is a brief version of the Gospel on which we already meditated in January, when the same theme of fasting was proposed to us (Mk 2, 18-22), but there is a small difference. Today, the Liturgy omits the whole discourse of the new piece of cloth on an old cloak and the new wine in an old skin (Mt 9, 16-17), and concentrates its attention on fasting. Bài Tin Mừng hôm nay là một phiên bản ngắn gọn của bài Tin Mừng mà chúng ta đã suy niệm trong tháng Giêng, khi mà cùng một chủ đề về ăn chay đã được trình bày cho chúng ta (Mc 2:18-22), nhưng có một sự khác biệt nhỏ. Hôm nay, phần Phụng Vụ bỏ qua toàn bộ bài giảng về việc vải mới vá vào áo cũ, rượu mới đựng trong bầu da cũ (Mt 9:16-17), và tập trung chú ý vào việc ăn chay.
• Jesus does not insist on the practice of fasting. Fasting is a very ancient use, practiced in almost all religions. Jesus himself practiced it during forty days (Mt 4, 2). But he did not insist with the disciples to do the same. He leaves them free. For this reason, the disciples of John the Baptist and of the Pharisees, who were obliged to fast, want to know why Jesus does not insist on fasting.  Ăn chay là một tập quán rất cổ xưa, được áp dụng ở hầu hết tất cả các tôn giáo. Chính Chúa Giêsu cũng đã ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày (Mt 4:2). Nhưng Người đã không đòi hỏi các môn đệ phải làm y như vậy. Người để cho các ông tự do chọn lựa. Vì lý do này, các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Biệt Phái, là những người bị buộc phải ăn chay, muốn biết lý do tại sao Chúa Giêsu không nhất quyết bắt các môn đệ phải ăn chay.
• While the bridegroom is with them, therefore, they do not need to fast. Jesus responds with a comparison. When the bridegroom is with the friends of the spouse, that is, during the wedding feast, it is not necessary for them to fast. Jesus considers himself the spouse. The disciples are the friends of the spouse. During the time in which Jesus was with the disciples, is the wedding feast. One day will come in which the spouse will no longer be there. Then, they can fast if they so desire. In this phrase Jesus refers to his death. He knows and he becomes aware that if he continues along this path of freedom, of liberty, the religious authority will want to kill him. Trong khi chàng rể còn ở với họ, do đó, họ không cần phải ăn chay. Chúa Giêsu trả lời với một sự so sánh. Khi chàng rể còn ở với khách dự tiệc, có nghĩa là, đang lúc tiệc cưới, thì họ không cần phải ăn chay. Chúa Giêsu ví mình là chàng rể. Các môn đệ là những khách dự tiệc. Trong lúc mà Chúa Giêsu còn đang ở với các môn đệ, đó là đang lúc tiệc cưới. Một ngày trong tương lai, chàng rể sẽ không còn ở đó nữa. Sau đó, các môn đệ có thể ăn chay nếu họ muốn. Trong câu nói này, Chúa Giêsu đề cập đến cái chết của mình. Chúa biết và Người ý thức được rằng nếu Chúa tiếp tục đi theo con đường tự do và tự quyết này, những giới chức tôn giáo sẽ muốn giết hại Người.
• Fasting and abstinence from meat are universal practices which are actual. The Muslims have the fasting of the Ramadan, during which they neither eat, nor should they eat until the rising of the sun. Always more and for diverse reasons, persons impose upon themselves some form of fasting. Fasting is an important means to control oneself, and to dominate oneself, and this exists in almost all religions. It is also appreciated by sportsmen. Ăn chay và kiêng thịt là những tập tục phổ quát thực tế. Các tín hữu Hồi giáo ăn chay vào tháng Ramadan, trong thời gian đó họ không ăn cũng không uống từ lúc mặt trời mọc cho đến lúc mặt trời lặn. Hơn hết và vì nhiều lý do khác nhau, người ta thường áp đặt cho mình một số hình thức ăn chay. Ăn chay là một phương tiện quan trọng để kiểm soát bản thân, và kiềm chế chính mình, và điều này hiện hữu trong hầu hết các tôn giáo. Các thể tháo gia cũng hiểu rõ giá trị của nó.
• The Bible has many reference to fasting. It was a way of making penance and of attaining conversion. Through the practice of fasting, Christians imitated Jesus who fasted during forty days. Fasting tends to attain the freedom of mind, self-control, a critical vision of reality. It is an instrument to maintain our mind free and not allow oneself to be transported by any breeze. Thanks to fasting, it increases the clearness of mind. It is a means that helps to take a better care of health. Fasting can be a form of identification with the poor who are obliged to fast the whole year and eat meat very rarely. There are also those who fast in order to protest. Kinh Thánh có nhiều lần đề cập đến việc ăn chay. Đó là một cách để làm việc đền tội và để được cải đổi. Qua việc giữ chay, các Kitô hữu bắt chước Chúa Giêsu đã ăn chay suốt bốn mươi đêm ngày. Việc ăn chay có xu hướng đạt được sự tự do của tâm trí, sự tự chủ, một cái nhìn nghiêm khắc về thực tại. Nó là một công cụ để giữ cho tâm trí chúng ta thảnh thơi và không để cho mình bị chao đảo. Nhờ ăn chay, nó làm tăng sự sáng suốt của tâm trí. Nó là một phương tiện để giúp cho sức khỏe tốt hơn. Ăn chay có thể là một hình thức đồng nhất hóa với người nghèo là những kẻ bị bắt buộc ăn chay quanh năm và rất hiếm khi ăn thịt. Ngoài ra còn có những kẻ tuyệt thực để phản đối.
• Even if fasting and abstinence are no longer observed today, the basic objective of this practice continues to remain unchanged and is a force which should animate our life: to participate in the Passion, Death and Resurrection of Jesus. Surrender one‟s own life in order to be able to possess it in God. Become aware or conscious of the fact that the commitment with the Gospel is a one way journey, without returning, which demands losing one‟s life in order to be able to possess and to find all things in full liberty. Ngay cả nếu việc ăn chay kiêng thịt không còn phải tuân giữ ngày nay, thì mục đích căn bản của việc thực hành này vẫn không thay đổi và là một sức mạnh tạo nên sinh động trong cuộc sống chúng ta: tham gia vào Cuộc Khổ Nạn, Cái Chết và Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Quy phục cuộc sống của mình để có thể sở hữu nó trong Thiên Chúa. Nhận thức hay ý thức được rằng ủy thác vào Tin Mừng là cuộc hành trình một chiều, không có việc quay trở lại, nó đòi hỏi người ta phải từ bỏ cuộc sống mình để có thể sở hữu và tìm thấy tất cả mọi thứ trong sự tự do hoàn toàn.
4) Salesian Constitutions 4) Hiến Luật Salêdiêng
18.  Work and temperance  

“Work and temperance will make the Congregation flourish”, whereas the seeking of an easy and comfortable life will instead bring about its death.

The Salesian gives himself to his mission with tireless energy, taking care to do everything with simplicity and moderation.  He knows that by his work he is participating in the creative action of God and cooperating with Christ in building the Kingdom.

Temperance gives him the strength to con­trol his heart, to master himself and remain even-tempered.

He does not look for unusual penances but accepts the dally demands and renunciations of the apostolic life.  He is ready to suffer cold and heat, hunger and thirst, weariness and disdain whenever God’s glory and the salvation of souls require it.

18. Làm việc và tiết độ

“Làm việc và tiết độ sẽ làm cho Dòng phát triển”; trái lại việc tìm tiện nghi và an nhàn sẽ đưa Dòng tới chỗ diệt vong .

Người Salêdiêng hiến mình cho sứ mệnh với sự cần lao không mỏi mệt, lo hoàn thiện mọi việc cách đơn sơ và mực thước. Qua công việc, họ biết là mình tham gia vào hành động sáng tạo của Thiên Chúa và cộng tác với Đức Kitô trong việc xây dựng Nước Chúa.

Sự tiết độ kiện cường nơi người Salêdiêng việc canh giữ cõi lòng và làm chủ bản thân, đồng thời giúp họ sống thanh thản.

Họ không tìm những việc đền tội phi thường, nhưng chấp nhận những đòi hỏi hằng ngày và những sự từ bỏ của đời tông đồ: sẵn sàng chịu nóng lạnh, đói khát, mệt nhọc và khinh khi, mỗi khi vinh danh Chúa và phần rỗi các linh hồn đòi hỏi .

5) Personal questions 5) Câu hỏi cá nhân
• Which is the form of fasting which you practice? And if you do not practice any, which is the form which you could practice? Bạn thực hành việc ăn chay theo hình thức nào? Và nếu bạn không có thói quen ăn chay bao giờ, thì bạn có thể thực hành dưới hình thức nào?
• How can fasting help me to prepare better for the celebration of Easter?   Làm thế nào mà ăn chay có thể giúp cho tôi chuẩn bị chu đáo hơn cho đại lễ Phục Sinh?
6) Concluding Prayer 6) Kinh kết
Have mercy on me, O God, in your faithful love, in your great tenderness wipe away my offences; wash me clean from my guilt, purify me from my sin. (Ps 51,1-2) Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, Mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm, Tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. (Tv 51:1-2)

Về Tác Giả và Dịch Giả: 

Các bài viết Lectio Divina do nhóm tác giả; Lm. Carlos Mesters, O.Carm. Nt. Maria Anastasia di Gerusalemme, O.Carm., Lm. Cosimo Pagliara, O.Carm. Nt. Maria Teresa della Croce, O.Carm. Lm. Charlò Camilleri, O.Carm. Lm. Tiberio Scorrano, O.Carm. Nt. Marianerina De Simone, SCMTBG và Lm. Roberto Toni, O.Carm., Dòng Cát Minh biên soạn. Bản dịch tiếng Việt do Cô Martha Nhung Trần thực hiện. Tác giả và dịch giả giữ bản quyền.

http://ocarm.org/en/content/lectio/lectio-divina

GB Thêm, SDB bổ sung phần Salêdiêng.

 

Visited 8 times, 1 visit(s) today