BÀI TƯỜNG TRÌNH CỦA BỀ TRÊN CẢ CHO TTN28 –  NHỮNG CHỨNG NHÂN CHO LỐI TIẾP CẬN TIN MỪNG CÁCH TRIỆT ĐỂ THEO ÁNH SÁNG CỦA TTN27

    Hợp với những Tổng Tu Nghị (TTN) trước, TTN27 mạnh mẽ mời gọi toàn Tu hội Salêdiêng sống tận căn sự thánh hiến tông đồ chúng ta. Tiếng gọi đó nhấn mạnh nhu cầu và tầm quan trọng của việc tái khám phá căn tính Salêdiêng chúng ta bằng việc sống ơn thống nhất và niềm vui ơn gọi chúng ta. TTN đó yêu cầu chúng ta lớn lên trong kinh nghiệm thiêng liêng mạnh mẽ bằng việc biến đổi chính mình thành những người tìm kiếm Thiên Chúa, có khả năng xây dựng tình huynh đệ chân chính của đời sống và hoạt động trong các cộng thể chúng ta hầu quảng đại tận hiến mình cho sứ mệnh Salêdiêng bằng việc bước đi với giới trẻ.

Nhìn vào 6 năm qua, như TTN27 đã làm trước, chúng ta bắt gặp nhiều biểu lộ về sự trung thành cũng như những tình trạng của sự bất nhất và sai trệch đã được chỉ ra trong những năm vừa qua. Đây là điều cha muốn xem xét trong những trang đầu tiên này.

1.1 Được gọi để sống sự tối thượng của Thiên Chúa cách tròn đầy hơn trong đời sống và trong cộng thể chúng ta

TTN27 là một tặng phẩm, một ân sủng và một cơ hội; nó thúc bách chúng ta thuộc về Thiên Chúa hơn, thuộc về anh em hội viên mình hơn và thuộc về giới trẻ hơn. Đây là điều cha đã nói trong lá thư đầu tiên của mình cũng như trong diễn từ kết thúc TTN đó. Như những người được thánh hiến, chúng ta muốn dành cho Thiên Chúa vị trí thứ nhất trong đời chúng ta. Chắc chắn mọi ngày đều có rất nhiều hội viên sống như thế. Họ đã được thúc đẩy bởi tiếng gọi nên thánh vốn được sống bởi Don Bosco và bởi những người đã lớn lên bên cạnh ngài trong ngôi trường chân chính của sự thánh thiện; cũng như họ tìm được sự khích lệ nơi nhiều người trẻ khao khát sự sống và sự chân chính trong khắp thế giới. Nhiều dấu chỉ, thường là những dấu chỉ đơn giản, làm cho sự tối thượng của Thiên Chúa nên hữu hình trong đời sống thường nhật chúng ta: gia sản phong phú của lối thiêng thường nhật chúng ta, được ghi dấu bằng tinh thần gia đình hấp dẫn và những tương quan tích cực, thân tình và lành mạnh; việc chúng ta rõ ràng sẵn lòng đồng hành với cuộc đời của giới trẻ và gia đình họ, và tình cha thiêng liêng của chúng ta[1]; việc trao ban chính mình cách quảng đại, thanh thản và vui tươi từ tình yêu dành Thiên Chúa và dành cho anh em mình…

Như đã đúng là thế đối với Don Bosco, thì đối với chúng ta cũng vậy sự tối thượng của Thiên Chúa ban sự sung mãn cho đời sống thánh hiến chúng ta, làm chúng ta tránh được “mối nguy là đặt mình bị các hoạt động chúng ta thấm hút mà quên mất rằng chúng ta cốt yếu là ‘những người tìm kiếm Thiên Chúa” và là chứng nhân về tình yêu của ngài giữa giới trẻ và những người nghèo nhất.”[2]

Trong thời kỳ sáu năm này chúng ta nhiều lần lặp lại rằng lối đường này chỉ khả thể bằng việc luôn cần phải liên tục sống sự hoán cải, cả bình diện cá nhân lẫn trong cộng thể, vì mục tiêu đó không bao giờ đạt đến một lần là xong. Chúng ta cố gắng chuyển trao cho cộng thể và tỉnh dòng một khoé nhìn đức tin, không bao giờ vô vọng, để cho chúng ta có thể khám phá Thiên Chúa bằng cách sống và vui hưởng những biến cố hằng ngày vốn nói nhiều về ngài.

Đã có một số nỗ lực, cố gắng, nhắc nhớ và mời gọi vốn làm cho nhiều người chúng ta chú ý đến việc sống cuộc sống chân chính. Và có nhiều điều thiện đã được Tu hội, cộng thể và hội viên chúng ta thực hiện trong từng ngày sống.

à Chúng ta cũng phải khiêm tốn thừa nhận rằng chúng ta bắt gặp những hình thức quy về chính mình và tự đủ vốn đã khiến một số anh em sống mà không ý thức về việc là những cộng sự viên của Thiên Chúa.

à TTN27 xác quyết: “tính khả giác và khả tín của đời thánh hiến chúng ta đã dần dần bị giảm thiểu.”[3] Trong những năm này chúng ta đã cố gắng làm cho các hội viên chúng ta nhay cảm và ý thức về tình trạng này, khi thúc đẩy họ nhiều lần – theo những lời của Thánh Phaolô – “dù gặp thời thuận lợi hay không thuận lợi” (x. 2 Tm 4:2); nhưng chúng ta không thể chối sự kiện rằng ngay cả hôm nay, dân chúng và thanh thiếu niên vẫn thường trân trọng chúng ta nhiều vì công cuộc chúng ta làm hơn là vì chính việc chúng ta là những Salêdiêng Don Bosco, nghĩa là, những người tu sĩ được thánh hiến được gọi để làm chứng cho yếu tính của sự thánh hiến nơi họ cách rõ ràng, trong suốt và thâm tín.

Vẫn có một đường dài phải đi. Chúng ta chắc chắn có thể nói rằng thiếu tính khả giác là một điểm đau buồn của đời sống thánh hiến sau Vatican II. Tuy nhiên, sự kiện rằng điều cũng đúng với những người được thánh hiến khác không phải là lý do cho ta để cảm thấy được dịu đi mối bận tâm và trách nhiệm của chúng ta.

Cơ bản, nó là vấn đề của việc chúng ta sống một loại đời sống trong đó, bằng việc lấy những bước nhỏ, chúng ta cho thấy rằng hoán cải là có thể được và như vậy tỏ lộ căn tính của đời sống thánh hiến chúng ta; nó là vấn đề của việc vun trồng một sự căng thẳng thiêng liêng lành mạnh vốn giữ chúng ta tiến tới phía trước bất chấp ngày nay người ta ít trân trọng nó biết bao; nó hoàn toàn là việc theo đuổi một lối đường liên lỷ biến đổi tâm trí và cõi lòng, một tiến trình vốn phải được cá nhân ao ước, tìm kiếm và chấp nhận. Tất cả điều này tạo nên tiến trình chúng ta cần để giúp chính mình hướng tới một sự tái sinh luôn luôn cần thiết, bởi vì đời sống làm chúng ta giảm dần, khi giản lược và coi nhẹ những chi tiết quan trọng, khi khiến chúng ta tương đối hoá điều không được tương đối hoá, v.v. Đây là viễn cảnh mà chúng ta tìm thấy trong những lời của Thánh Gioan Phaolô II trong Tông huấn Vita Consecrata: “Vì vậy, đời sống thiêng liêng phải có chỗ thứ nhất… Hiệu quả tông đồ, sự quảng đại trong tình yêu đối với người nghèo, và khả năng thu hút ơn gọi giữa thế hệ trẻ hơn lệ thuộc vào tính ưu tiên này và sự tăng trưởng của nó trong sự cam kết của cá nhân và cộng thể.”[4]

Trong sáu năm này Ban Tổng Cố Vấn và chính cha đã đặt trước mặt mình những đường nét có kế hoạch theo bài diễn từ kết thúc TTN27. Hiển nhiên, nó hơn là một bài diễn từ. Nó nhằm vạch ra một lối đường rõ ràng và thực tiễn, hợp với tinh thần được sống ở TTN27 và những suy tư đã được đưa ra. Rồi cha đã diễn đạt niềm xác tín: “Thật sự đáng lo âu nếu một ai đó đi tới kết luận rằng tính mỏng dòn chúng ta nhìn thấy trong việc sống sự tối thượng của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta là một cái gì thiết thân với DNA Salêdiêng chúng ta.”[5] Bởi vì nó đã không là thế đối với Don Bosco cũng như với nhiều con cái của ngài mà nơi họ đoàn sủng chúng ta trưởng thành. Hiển nhiên Don Bosco không muốn nó như thế. Vì vậy, cha tin rằng chúng ta phải tiếp tục theo hành trình này là sống một đời sống tu sĩ chân chính hơn, ý thức rằng chúng ta đang đi đúng đường; nó là một con đường đơn giản của sự thánh hoá bản thân, là “tặng phẩm quí báu nhất chúng ta có thể cống hiến cho giới trẻ.”[6] Và chúng ta biết rằng không thể nói về Don Bosco và sự ưu ái ngài dành cho thanh thiếu niên và giới trẻ nếu chúng ta không có một ưu ái thậm chí còn thu hút hơn và tình yêu nồng nhiệt hơn dành cho Đức Giêsu Kitô.

1.2 Một tiếng gọi để sống một tình huynh đệ hấp dẫn cách chân thật

Đối với chúng ta các Salêdiêng Don Bosco, đời sống cộng thể, tình huynh đệ tin mừng được sống trong cộng thể, là một lối đường chúng ta hiện thực kinh nghiệm về Thiên Chúa. Nó có nghĩa là sống “chiều kích huyền nhiệm của tình huynh đệ chúng ta” vốn là một yếu tố cốt yếu trong sự thánh hiến tông đồ chúng ta. Đức Giáo hoàng Phanxicô nói cho chúng ta: “Ở đó chúng ta tìm được sự chữa lành chân thật, vì cách tương giao với người khác vốn thật sự chữa lành thay vì làm suy nhược chúng ta, là một tình huynh đệ huyền nhiệm, một tình huynh đệ chiêm niệm. Nó là một tình yêu huynh đệ có thể thấy được sự vĩ đại thánh thiêng của người lân cận, có thể tìm được Thiên Chúa trong mọi con người, có thể chịu được những khó chịu của cuộc sống chung bằng cách bám vào tình yêu Thiên Chúa, có thể mở cõi lòng cho tình yêu Thiên Chúa và tìm kiếm hạnh phúc của người khác giống như Cha trên trời đã làm… Chúng ta đừng cho phép mình bị đánh cắp khỏi cộng thể!”[7]

Hẳn nhiên cách riêng ngày nay những người trẻ chúng ta rất nhạy cảm, không phải đối với lời chúng ta nói cho bằng với những dấu chỉ chúng ta truyền đạt, cho bằng chứng từ chúng ta cống hiến. Nói chung, chúng đang tìm kiếm những mối liên hệ lành mạnh và trong sáng, ít nhất với chúng ta. Nhiều người trong chúng kinh nghiệm sự phân rẽ và đoạn tuyệt trong gia đình chúng; vì thế khi chúng ta sống tình huynh đệ một cách thuyết phục, chúng ta bộc lộ cho chúng một thế giới khác, một cách tương giao khác, những giá trị khác vốn đơn giản và sâu xa cùng một lúc.

Chúng ta biết rất rõ rằng suốt những năm tháng ở Valdocco không phải mọi sự đều hoàn hảo. Chúng ta biết nỗi đau Don Bosco kinh nghiệm: nó lộ ra trong lá thư ngài viết từ Roma. Tuy nhiên, chúng ta nói về “tinh thần Valdocco”, về tinh thần gia đình, về “cảm nếm mái ấm và gia đình” mà Don Bosco thích rất nhiều trong những tương quan giữa Salêdiêng và thanh thiếu niên. Đó là một loại tình huynh đệ lý tưởng vốn phải toả sáng trong cộng thể chúng ta.

Từ quan điểm này, những nỗ lực đáng kể đã được thực hiện trong thời kỳ lục niên này. Cha có thể đảm bảo với anh em rằng tất cả các tỉnh dòng đã bắt đầu nhiều sáng kiến khác nhau để đồng hành với các cộng thể và hội viên và giúp họ lấy những bước cụ thể trong lãnh vực này. Chúng ta không vô cảm với trách nhiệm này. Hoàn toàn ngược lại. Cùng lúc, chúng ta phải chấp nhận rằng vẫn còn những mỏng dòn và giới hạn cá nhân vốn làm cho vẻ sáng chói mờ đi và thậm chí dấu mất ánh sáng vốn phải được toả sáng.

  • Một vài hội viên có khuynh hướng sống thoải mái hoặc tính hiếu động thái quá của những người khác cổ xuý niềm tin rằng thời gian chia sẻ trong cộng thể là thời gian “bị đánh cắp” khỏi không gian “riêng tư” của họ hoặc khỏi một điều gì mà họ có thể làm.
  • Đôi khi, có ẩn núp một thái độ lãnh cảm (dửng dưng) kín ẩn đối với những hội viên của mình, dưới chiêu bài “kính trọng” hay ” chịu đựng”.
  • “Những tương giao cá nhân trong cộng thể có thể trở thành hình thức, phân mảnh và không ý nghĩa.”[8] Khi học hỏi về những tỉnh dòng vào cuối những cuộc kinh lý ngoại thường, Ban Tổng cố vấn kết luận trong một cách thức hầu như chung chung rằng chủ nghĩa cá nhân – một chủ nghĩa cá nhân luôn gia tăng – là bệnh chính yếu trong đời sống huynh đệ chúng ta, một đàng cả trong tương quan với sứ mệnh lẫn công cuộc và đàng khác, với những dịp đặc thù và thời giờ rảnh. Nó nhấn mạnh cách thức giao tiếp chức năng ngày một gia tăng với những người khác và rút lui vào “lãnh vực riêng” của mình – không ít dịp được đi liền với việc sử dụng đa phương tiện cách cá nhân và không luôn luôn thích đáng. Chắc chắn có nhiều hội viên bước tới, khi đòi hỏi và đề cao những cam kết của mình và nỗ lực hết sức để sống tình huynh đệ tin mừng chân chính. Nhưng sánh ngay bên, họ gặp loại thái độ đã nói ở trên vốn làm hư hoại những giấc mơ của họ. Rõ ràng tất cả điều này tạo nên sự mỏng dòn của chúng ta và thuộc vào con đường hoán cải và tăng trưởng mà mỗi người được gọi để theo đuổi.

1.3. Luôn luôn với và cho giới trẻ

Trong TTN27 chúng ta xác quyết rằng giới trẻ là “bụi gai cháy của chúng ta”.[9] Qua chúng, Thiên Chúa đã luôn nói với chúng ta và ngày nay đang nói cho chúng ta. Chính qua người trẻ mà Thần khí đào tạo tâm hồn của Don Bosco. Một biểu (hình) tượng diệu kỳ biết bao! Biểu tượng này nhắc nhớ chúng ta rằng chúng ta đang chạm đến mầu nhiệm sự sống, và vì chính lẽ này, như Môsê, chúng ta cũng phải cởi dép mình ra để đặt chính mình bị sững sờ và chiêm ngắm trong thinh  lặng điều Thiên Chúa đang làm trong cuộc đời chúng ta, cuộc đời của hội viên chúng ta và trong câu chuyện cuộc đời của các thiếu niên và giới trẻ chúng ta. Và, trừ phi chúng ta quên lãng, chúng ta có thể sống tính tối thượng của Thiên Chúa một cách chân chính như là sự diễn đạt sâu xa nhất của ơn gọi chúng ta như những Salêdiêng Don Bosco bằng cách ở giữa giới trẻ và  phục vụ họ, vì Chúa đợi chờ chúng ta nơi chúng và trong Don Bosco, ngài đã mơ về chúng ta cho chúng.

Tất cả điều này làm cho đoàn sủng Salêdiêng Don Bosco thành một cái gì thu hút và khơi lên nhiều lôi cuốn nơi giới trẻ, chẳng hạn, trong 435 tập sinh và hơn nữa; mỗi năm họ chọn để chuẩn bị mình sống như những Salêdiêng Don Bosco. Chính vì lẽ này mà chúng ta không được dừng lại giữa đường; chúng ta không được để cho những khát vọng của các thiếu niên và người trẻ vốn gặp gỡ người Salêdiêng mỗi ngày bị chưng hửng. Chúng ta không được làm họ thất vọng.

Trong lá thư gởi cho các Salêdiêng nơi con người của Bề Trên Cả nhân dịp mừng 200 năm ngày Don Bosco sinh ra, Đức Giáo hoàng Phanxicô, không phải bằng những lời lẽ mầu mè, nói trực tiếp và mạnh mẽ với chúng ta: “Ước gì Don Bosco giúp anh em không làm thất vọng những khát vọng sâu xa của giới trẻ: nhu cầu sống của chúng, sự rộng mở, niềm vui, tự do và một tương lai; chúng ao ước cộng tác vào việc xây dựng một thế giới công bằng hơn và huynh đệ hơn, vào việc phát triển các dân tộc, vào việc bảo vệ thiên nhiên và tất cả môi trường sống. Theo gương ngài, anh em sẽ giúp chúng kinh nghiệm rằng những lý tưởng chân chính nhất chỉ có thể được hiện thực trong đời sống ân sủng, nghĩa là, trong tình bạn với Đức Kitô. Anh em sẽ vui sướng đồng hành với chúng trong những thời khắc chúng sẽ làm những quyết định đòi hỏi khi chúng tìm kiếm một tổng hợp của đức tin, văn hóa và đời sống.”[10]

Cha nghĩ thật công bằng để nói rằng Tu hội thì chú tâm và lắng lo đến thực tại trẻ em và giới trẻ. Chúng ta không lạc đường. Chúng ta không lạc khỏi yếu tính của đoàn sủng chúng ta. Chúng ta cống hiến những năng lực, những nỗ lực, sự cam kết và nhất quyết của mình để theo đuổi và đồng hành với người trẻ, để hiểu biết và gặp gỡ những kẻ ngày nay bị lãng quên. Và khi làm điều này, nhiều hội viên chúng ta đã mất mạng sống.

Thành thật mà nói, chúng ta không sai lầm trong việc chấp nhận rằng nhiều lần những xa cách đã nổi lên giữa giới trẻ và chúng ta hay giữa chúng ta và giới trẻ – không chỉ những xa cách thể lý mà cả xa cách tâm trí và văn hóa. Cũng đúng là đối với một số hội viên, những trách vụ quản trị/điều hành thì hấp dẫn hơn và đáng làm hơn việc họ hiện diện giữa giới trẻ; cũng đúng là đôi khi các sân chơi của chúng ta vẫn trống rỗng vì thiếu các Salêdiêng hiện diện; cũng đúng là đôi khi giữa việc là những tôi tớ của giới trẻ và việc chăm lo cho những nhu cầu chúng ta, thì sự ưa chuộng những tiện nghi của chúng ta lại ưu thắng (cụ thể là, có những không gian thoải mái tùy ý chúng ta, nhận được sự nhìn nhận từ kẻ khác, có giờ rảnh và riêng tư…) Rốt cục, điều nguy cơ là tình yêu, là sự hiện thực thực tiễn những lời của Don Bosco: “chỉ cần các con là trẻ thì đã đủ để cha yêu mến các con thật nhiều.”[11]

1.4. Tiến tới trong Giáo hội và với Đức Giáo hoàng Phanxicô

Trong  những phạm vi khác nhau cha muốn lặp đi lặp lại cũng như phải nhắc nhớ mọi người rằng trong sự trung thành với gia sản chúng ta nhận được từ Don Bosco, chúng ta ở với Đức Giáo hoàng: ngày nay với Đức Phanxicô, ngày trước với Đức Bênêđictô XVI và trước kia nữa với Đức Gioan Phaolô II (nay đã là 1 vị thánh). Và khi lái tàu khắp dòng sông lớn lao là Giáo hội, chúng ta đã sống 6 năm Ân Sủng lạ thường.

Để cho cha nói rằng nếu chúng ta đã từng mơ về sự sinh động của Giáo hội trong phần nhỏ này mà chúng ta hiện hữu như một Tu hội và Gia đình Salêdiêng, chúng ta sẽ không bao giờ đã tưởng tượng nó rất gần với yếu tính tinh ròng nhất của đoàn sủng Don Bosco.

Những Tông huấn khác nhau của những thời gian mới đây, việc cử hành ba Thượng Hội Đồng Giám mục mới đây về gia đình và giới trẻ cũng như những tuyên bố của Giáo hoàng về chúng, đã cống hiến cho chúng ta một suy tư đầy đủ của Giáo hội vốn không chỉ khích lệ chúng ta nhưng chìm ngập chúng ta trong sự giầu có của việc Giáo hội tư duy, và hẳn nhiên sẽ soi sáng những suy tư của TTN chúng ta. Hiển nhiên chúng ta không thể và không được thực thi công cuộc của chúng ta trong Tu Nghị này mà không dành sự xem xét thích đáng cho tính nhạy cảm, sự hiểu biết và sự giàu có mục vụ mà Giáo hội và cách riêng Đức Giáo hoàng, đã cống hiến cho chúng ta.

  1. NHỮNG SUY TƯ KHÁC VỀ TÌNH TRẠNG CỦA TU HỘI

2.1 Vai trò chủ chốt của giới trẻ, loan báo Tin Mừng và Phong trào Giới trẻ Salêdiêng

Những trang tường trình này được dành cho Mục vụ Giới trẻ của 6 năm qua cống hiến một bản trình bày chi tiết với nhiều tiến trình và sáng kiến được thực hiện trong thời kỳ này. Chúng tôi tin rằng chúng ta phải luôn nói rằng loan báo Tin Mừng cho trẻ em, người trẻ và tất cả những ai thụ hưởng của công cuộc chúng ta là một kết quả, đồng thời, là một thách đố thường hằng; nó là một thực tại mà về nó, ngay cả khi chúng ta hân hoan vì những điều tốt chúng ta làm được, chúng ta không bao giờ cảm thấy mãn nguyện hoàn toàn bởi vì nó luôn dường như không đủ đối với chúng ta. Vai trò lãnh đạo của giới trẻ liên lỷ tăng trưởng trong nhiều lãnh vực của Tu hội quả là đúng. Cũng đúng là Phong trào Giới trẻ Salêdiêng được coi như một trong những kết quả tích cực nhất của công cuộc loan báo Tin Mừng của chúng ta vì lý do đơn giản rằng chính giới trẻ thường là những người sinh động và loan báo Tin Mừng cho những người trẻ khác. Tất cả điều này là nguyên do sâu xa để hân hoan. Hơn nữa, chúng ta thấy rằng trong một số lãnh vực của Tu hội, việc thiện nguyện là một thực tại giúp giới trẻ trưởng thành trong những khía cạnh quan trọng nhất của cuộc đời, bao gồm khía cạnh ơn gọi và truyền giáo.

Sau đây là những thách đố cha thấy rằng quan trọng:

à Loan báo Tin Mừng là trọng trách và cũng là thách đố của chúng ta. Cống hiến trong mọi sự hiện diện những tiến trình giáo dục đức tin và đề xướng để tăng trưởng toàn diện phải là một ưu tiên mà cha dám xác định là cực kỳ khẩn cấp. Thực thế, trong một vài trường hợp, đối diện với những khó khăn, chúng ta xén bớt hoạt động loan báo Tin Mừng và giáo dục của mình. Tuy nhiên, chung chung, chúng ta cần uy tín lớn lao hơn trong việc làm ra những đề xướng và sự hăng say tông đồ hơn. Chúng ta có thể nói rằng điều chúng ta làm thì không bao giờ đủ. Chúng ta cần các cộng thể giáo dục và mục vụ chúng ta tiếp tục tăng trưởng trong sự xác tín và cam kết cho hoạt động giáo dục và loan báo Tin Mừng để phục vụ như là một điểm tập hợp hầu làm cho mọi người chúng ta can dự và dấn thân một cách đòi hỏi hơn.

àĐàng khác, chúng ta lặp lại tới độ hết hơi rằng tổ chức các hoạt động và biến cố thì không đủ. Chúng ta phải đặt sự sống vào trong những tiến trình giáo dục và loan báo Tin Mừng trong đó căn tính đoàn sủng, mục vụ và sư phạm của hoạt động Salêdiêng trao ban một lời đáp cho những thay đổi đang xảy ra trong thế kỷ này. Thường thường và trong nhiều bối cảnh, sự hiện thực cam kết này vẫn để lại nhiều điều đáng ao ước và bị đình chỉ lại.

à Các Salêdiêng hôm nay và ngày mai phải coi việc chú tâm tới việc huấn luyện và những tiến trình đồng hành với tất cả những nguòi trẻ, cách riêng những sinh động viên giới trẻ, giáo lý viên, v.v. cũng như sự đồng hành với họ trong những diễn đàn và tổ chức để bảo vệ nhân quyền, quyền của trẻ em, sự phát triển, công bằng và hòa bình, v.v. là ưu tiên của mình. Mục vụ giới trẻ chúng ta hoạt động theo những đường nét này và không thể còn bị cô lập, như thể nó là một tiểu vũ trụ Salêdiêng.

à Trong sứ mệnh Salêdiêng chúng ta, gia đình phải tiếp tục được chú tâm hơn, vì nó vẫn còn cần thiết để thiếu niên và người trẻ tăng trưởng tới trưởng thành. Trong nhiều dịp, gia đình phục vụ như một nơi trú ẩn khỏi những tình trạng thù nghịch trong những vùng xung quanh của nó. Không ít gia đình chịu những hệ quả của sự chia rẽ và phân mảnh, đôi khi bởi vì cha mẹ không sẵn sàng và trưởng thành đủ cho vai trò làm cha làm mẹ. Vì thế, dẫu là trong những tình trạng thuận lợi nhất hay bất toàn nhất, sự chăm sóc mục vụ của chúng ta phải bao gồm như một ưu tiên sự phục vụ tận hiến cho các gia đình cùng với sự phục vụ dành cho giới trẻ.

2.2. Một cam kết ưu tiên: lắng nghe và đồng hành với người trẻ

TTN27 đã nói đi nói lại về mối quan tâm và cam kết ta phải có như những Salêdiêng trong việc đồng hành với giới trẻ.[12] Cha nghĩ thật công bằng khi nói rằng, dần dần, chúng ta có được một ý thức lớn lao hơn về tầm quan trọng của việc đồng hành với giới trẻ khi họ tiến bộ trong hiểu biết và sự tăng trưởng cá nhân và trong hành trình của họ gặp gỡ Đức Giêsu.

Khi dùng những lời mà đôi khi thay đổi với thời gian, suốt nhiều thập niên chúng ta đã nói về chấp nhận giới trẻ vô điều kiện, sẵn lòng gặp chúng cách cá vị, đối thoại, lắng nghe và cử hành sự giao hòa với chúng, sẵn sàng “nói về sự bất chắc chắn ơn gọi, hay về “những nghi ngờ của tôi”, như chính chúng thường nói.

Trong sáu năm này, ta đã nỗ lực chú tâm đặc biệt tới việc lắng nghe và đồng hành với giới trẻ. Chúng ta cũng bàn đến nó sáu năm trước, nhưng trong sáu năm vừa qua chúng ta đã mãnh liệt hóa những nỗ lực sinh động của mình. Việc phổ biến cuốn Cẩm nang Mục vụ Giới trẻ Salêdiêng và hiểu biết hơn về cuốn sách đó trong tất cả mọi miền của Tu hội mang đến trợ giúp lớn lao. Đại hội được tổ chức ở Madrid về Mục Vụ giới trẻ và Gia đình đã động viên chúng ta hơn nữa. Việc cử hành Thượng Hội đồng Giám mục về người trẻ, đức tin và phân định ơn gọi đã có tầm quan trọng và giá trị đặc biệt cho chúng ta; nó dẫn chúng ta tới việc nháp một văn kiện, những người Salêdiêng trẻ và sự đồng hành, được ban ngành đào luyện và mục vụ giới trẻ liên đới chuẩn bị, đã được Bề Trên Cả và Ban Tổng cố vấn học hỏi và phê chuẩn sau đó. Sự hiểu biết và áp dụng văn kiện này chắc chắn sẽ rất hữu ích và sẽ cổ xúy sự phân định cũng như sự đồng hành và đào luyện ban đầu của các Salêdiêng trong những giai đoạn khác nhau.

Hiển nhiên là điều xảy ra trong mục vụ giới trẻ có tác động trên đào luyện Salêdiêng và ngược lại. Nếu chúng ta thành công khi thực thi sự đồng hành và phân định ơn gọi tốt đẹp trong mục vụ giới trẻ, các ơn gọi Salêdiêng vốn nảy sinh với sự trợ giúp của tiếng Thiên Chúa gọi và ân sủng ngài sẽ được sẵn sàng cách thuận lợi hướng tới những tiến trình đào luyện của họ. Và nếu ta cống hiến một sự đồng hành tốt đẹp trong những giai đoạn đào luyện khác nhau, chúng ta có thể đoán chứng rằng trong tương lai chúng ta sẽ có những Salêdiêng đã được chuẩn bị tốt đẹp và sẵn sàng để dấn thân vào mục vụ giới trẻ và đồng hành với giới trẻ.

Cha thấy trong trách vụ này, ngay bây giờ và trong tương lai gần, một cơ hội tuyệt diệu cho Tu hội chúng ta, nhờ vào những người trẻ trong các sự hiện diện của chúng ta khắp trên thế giới và nhờ vào các hội viên trẻ vốn sẽ ngày một hơn hướng tới việc theo đuổi một lối đường mà họ đã sống và kinh nghiệm. Chính Đức Giáo hoàng Phanxicô, trong đoạn cuối cùng của Tông huấn Đức Kitô hằng sống, diễn đạt ước muốn rằng những người trẻ có thể theo con đường đẹp này và bảo họ: “Ước gì Thánh Thần thúc đẩy các con khi các con chạy theo cuộc đua này. Giáo hội cần sức đẩy của các con, trực giác của các con, đức tin của các con. Chúng tôi cần chúng! Và khi các con tới nơi mà chúng tôi chưa tới, hãy kiên nhẫn chờ đợi chúng tôi.”[13]

2.3. Sáu năm đầy sự sinh động truyền giáo

Thực tại truyền giáo của Tu hội thật sự lớn lao và đẹp đẽ. Những bối cảnh và hoàn cảnh trong đó chúng ta chia sẻ đời sống và sứ mệnh với những dân tộc khác nhau và những nhóm sắc dân khác nhau rất phong phú, nhưng nói chung, theo ý cha, không được nhiều người biết đến. Chính vì thế cha nghĩ rằng cống hiến thông tin dưới dây cho tất cả thành viên hội nghị khoáng đại này quả là sẽ rất thú vị.

Ngay bây giờ, Tu hội hiện diện trong 134 quốc gia: 43 ở châu Phi, 24 ở Mỹ châu, 29 ở Á châu, 32 ở Âu châu và 6 ở châu Đại dương. Lúc này, sự hiện diện của chúng ta đang bị treo ở Yemen, ở đó người hội viên chúng ta, cha Tom Uzhunnalil, bị bắt cóc 557 ngày. Chúng ta đã đóng sự hiện diện của mình tại 2 quốc gia: Iran và Andorra. Đồng thời chúng ta thiết lập những hiện diện mới ở hai quốc gia khác: Malaysia và Gambia. Rồi chúng ta nhận được yêu cầu mở các cộng thể mới ở Afghanistan, Algeria, Guinea-Bissau, Kazakhstan, Iraq, Thụy Điển, Sao Tomé và Principe, Somalia và Vanuatu.

* A – Những bối cảnh tôn giáo đặc thù

à Bối cảnh Hồi giáo:

Hiện tượng đa biệt tôn giáo và những khác biệt đa văn hóa thì ngày một dài ra (hàng ngang) và không chỉ được xác định theo địa lý. Sự hiện diện của chúng ta trong những quốc gia với phần đa là Hồi giáo ở đó đoàn sủng DB phục vụ người trẻ như một chứng tá cho Tin Mừng và đối thoại liên tôn, được tập trung đặc biệt ở Tỉnh dòng Trung đông (MOR) trong một bối cảnh Hồi giáo Ả rập: Syria, Palestine và Ai cập. Tại Lebanon và Israel, các công cuộc của chúng ta có những đặc tính riêng bởi vì sự hiện diện ý nghĩa của Kitô giáo trong nơi chốn trước (Lebanon) và Do thái-Hồi giáo ở nơi chốn sau. Chúng ta cũng có thể gợi nhắc những hiện diện mới của chúng ta ở Kuwait và Khối Ả rập Thống nhất (United Arab Emirates) cũng như trong những quốc gia Maghreb, Morocco và Tunisia.

à Trong bối cảnh Á châu, chúng ta có những sự hiện diện với những đặc tính rất khác nhau ở Azerbaijan, Bangladesh, Indonesia, Malaysia, Pakistan và Turkey (Thổ Nhĩ Kỳ).

à Tại bối cảnh Âu châu: Albania, Kosovo, Bosnia-Herzegovina.

à trong bối cảnh Phi châu: Burkina Faso, Chad, Gambia, Guinea Conakry, Mali, Senegal, Sierra Leone và Sudan.

à Trong bối cảnh Phật giáo: Cambodia, China, Korea, Japan (với phật giáo và Shinto chủ yếu), Mongolia, Myaanmar, Nepal, Sri Lanka, Thailand, Taiwan và Việt nam.

à Trong bối cảnh Chính Thống giáo Kitô hữu: Belarus, Bulgaria, Georgia, Ethiophia, Eritrea, Moldova, Montenegro, Romania, Russia, Serbia và Ukraine.

*B. Những bối cảnh của tính di động và di cư của con người

à Những trại tỵ nạn và những nhập cư quốc nội (IDP – Internally Displaced People): tách khỏi sự chuyển đổi của hiện tượng này vốn ảnh hưởng nhiều quốc gia, chúng ta hiện diện trong những nơi rất ý nghĩa vốn can dự đến thực tại bi thương của những người tỵ nạn và di cư trong chính quốc gia mình. Thí dụ: Burundi, Trung phi, Ai cập, Ethiopia, Ấn độ, Kenya, Lebanon, Nigeria, Cộng hòa dân chủ Congo, Rwanda, Syria, Sudan, Nam Sudan, Turkey, Ukraine và Uganda.

à Hiện tượng di dân thì khổng lồ và phân biệt, và có tầm rộng lớn đến nỗi, cách này cách khác, Tu hội thấy mình bị chìm ngập trong đó tới một mức lớn lao. Như một thí dụ, cha liệt kê một vài sự hiện diện ý nghĩa hơn, cả về những nơi đi và những nơi đến ở đó chúng ta làm việc cho những người di cư và những người tị  nạn: Đức, Bangladesh, Bỉ, Canada, Cuba, Colombia, El Salvador, Tây Ban Nha, Hiệp chủng quốc, Ethiopia, Ai cập, Pháp, Anh, Ghana, Guatemala, Haiti, Honduras, Ấn độ, Ireland, Ý, Morocco, Mexicô, Myanmar, Nepal, Nigeria, New Zealand, Hòa Lan, Peru, Ba Lan, Bồ đào Nha, Cộng hòa Dominic, Senegal, Ukraine, Venezuela…

* C. Những bối cảnh của các nhóm sắc tộc

Thảo ra một danh sách hơn kém thấu đáo về những thực tại này quả là một trách vụ rất phức tạp vì vào lúc này chúng ta thiếu những dữ liệu thích đáng đầy đủ.

Đây là những thực tại phong phú và khác biệt trong những lục địa khác nhau. Chẳng hạn, hãy xét đến người Gypsy ở Âu châu, một số lớn các sắc dân thiểu số ở Đông Bắc Ấn độ, và hàng trăm nhóm sắc tộc hiện diện trong 43 quốc gia của lục địa Phi châu. Khắp châu Mỹ chúng ta bắt gặp những dân tộc khác nhau chẳng hạn những dân tộc từ vùng Andean (quechua, aimara, mapuche) hay vùng Mesoamerican (quetchi, mixes, zapotec, chilanteco …) hay vùng Amazon.

Trong bối cảnh của Thượng Hội đồng Giám mục vừa qua được nhóm họp vào tháng 10, 2019, cha muốn bàn đặc biệt đến những sự hiện diện chúng ta ở vùng Amazon: Braxin, Ecuador, Peru và Venezuela; chúng ta có thể thêm Paraguayan Chaco, vốn nối kết chặt chẽ với thực tại Amazon, vào những vùng này. Trong vùng này, chúng ta có 47 cộng thể Salêdiêng với 245 hội viên. 22 cộng thể được định vị trong một bối cảnh thành phố và 25 trong một bối cảnh vùng quê. Chúng ta hiện diện giữa 62 thổ dân của Amazon: trong Giáo hội, chúng ta là Tu hội có sự hiện diện lớn nhất giữa những dân tộc này. Có 1219 cộng đoàn Công giáo và 2123 những người thợ mục vụ, làm việc trong các vùng dân quê với 612.231 người, 66.7% của họ là người Công giáo[14].

Theo lãnh địa của các tỉnh dòng, chúng ta có thể liệt kê những dân tộc này:

→ Brazil Campo Grande (BCG): the Xavante, Bororo, Terena, Guaraní, Kaiowá, Kinikianau, Atikum, Guató, Ofaié, Kadiwíeu, Kura Bakairi.

 → Brazil Manaus (BMA): the Tukano, Tariano, Dessano, Piratapuia, Hupda, Cubeo, Uanano, Barassano, Mirititapuia, Arapaso, Tuyuka, Carapanasso, Baré, Yanomani, Baniwa.

→ Ecuador (ECU): the Shuar, Achuar, Saraguro, Kitchwa. → Peru (PER): the Achuar, Shawi, Kandozi, Wampis, Awajun, Kitchwa, Chapra, Kucamacucamilla, Shivillo, Shipibo-Conivo, Machiguengas.

→ Venezuela (VEN): the Arawaco, Hiwi, Piaroa, Yanomami, Sanema, Yekauana, Wayúu, Wotuha, Eñepa, Hoti, Maco, Puinave, Yavarana, Piapoco, Baniba, Baré, Curripaco, Yeral, Warekena, Inga.

→ Paraguay (PAR): the Ayoreo, Maskoy, Ishir, Tomarajo.

Nhấn mạnh sự kiện rằng hiện hành 18 hội viên có lời khấn trọn đời hay trong đào luyện, 8 tiền tập và 12 tu sinh từ thổ dân vùng Amazon (Tuyuka, Desano, Traiano, Arapaso, Tukano, Baniwa, Bororo, Xavante, Shuar, and Kitchwa) quả là quan trọng.

Các hội viên thân mến, điều cha muốn trình bày cho anh em là một “bức hình” về thực tại truyền giáo tươi đẹp của Tu hội chúng ta. Giữa những người vốn tiếp tục thực tại này hôm nay và những người đã đặt nền tảng đó, chúng ta có thể đếm hơn 10.400 vị truyền giáo Salêdiêng ad gentes, bắt đầu từ cuộc viễn chinh truyền giáo lần đầu của Don Bosco năm 1875 tới cuộc truyền giáo vừa qua mà chúng ta vừa chứng kiến, cụ thể là, lần thứ 150. Nhiều lần các nữ tu chúng ta, Con Đức Mẹ Phù hộ các Giáo hữu, đã lên đường đi cùng với chúng ta, thông thường để thực thi một hoạt động truyền giáo bổ sung.

Nhờ ơn Chúa và tác động của Thần khí, những vị truyền giáo này, cả nam lẫn nữ, đã gieo trồng đoàn sủng Salêdiêng của Don Bosco mà đã lớn lên trong năm lục địa.

Công đồng Vatican II mạnh mẽ thúc đẩy tất cả các Tu hội và Hiệp hội dấn thân vào trách vụ tông đồ và loan báo Tin Mừng trong những vùng đất truyền giáo.[15]

Mặc dù không có “đặc tính truyền giáo” rõ ràng trong truyền thống Salêdiêng, chúng ta cũng muốn đáp lại lời hiệu triệu này, bởi vì chúng ta biết từ tuổi trẻ Don Bosco cũng nuôi dưỡng niềm hy vọng trở thành một vị truyền giáo. Tư tưởng đó không hề rời khỏi ngài.[16] Nó là một lý tưởng vĩ đại ngài đã có, và ngài hiện thực nó qua con cái nam nữ của mình. Chúng ta chắc chắn là những vị truyền giáo và “trung thành với tinh thần của Đấng Sáng lập, những người kế vị Don Bosco luôn nỗ lực đặc biệt cho hoạt động truyền giáo của Tu hội.”[17] Cha có thể đảm bảo với anh em rằng chúng ta cũng sẽ tiếp tục làm như thế.

2.4. Theo một lối đường liên tục và luôn tăng trưởng như Gia đình Salêdiêng của Don Bosco

TTN27 xác quyết rằng ý thức của chúng ta là một Gia đình Salêdiêng đã tăng trưởng.[18] Cha nói cùng điều đó về sáu năm qua. Chắc chắn, công cuộc đó được các tỉnh dòng và cộng thể địa phương thực hiện thường rất quan trọng. Những ngày Linh đạo Salêdiêng đã được tiếp nhận tốt đẹp và đã chứng kiến sự tham dự đáng kể và ý nghĩa. Hoa thiêng được đề ra mỗi năm tiếp tục được 32 nhóm làm thành Gia đình Salêdiêng trong thế giới yêu cầu và trân trọng. Trong mọi bối cảnh và nơi chốn chúng ta chọn điều có thể diễn đạt tốt nhất yếu tính của sứ điệp ấy trong văn hóa địa phương, do vậy đảm bảo rằng nó hiện diện và trải rộng khắp thế giới Salêdiêng. Việc đề xướng chủ đề là một cái gì ngày một hơn mỗi năm cho thấy căn tính chúng ta như một gia đình tu sĩ trong thế giới, cho việc chúng ta là gia đình của Don Bosco! Và Thẻ Căn cước (Thẻ Căn tính) của Gia đình Salêdiêng là điểm qui chiếu trong đó chúng ta chỉ tìm thấy điều này: căn tính chúng ta như một gia đình trong đó từng nhóm – và cách riêng nhóm chúng ta – nhìn nhận chính mình là một thành viên.

Suy tư về Gia đình Salêdiêng được bắt đầu từ TTNDB20 ngày nay vẫn có tầm quan trọng tột bực, vì nó cấu thành nền tảng của việc chúng ta là Gia đình của Don Bosco và xác định việc chúng ta thuộc về Gia đình ấy và phục vụ gia đình ấy. TTNDB nói: “Những người Salêdiêng không thể suy nghĩ lại đầy đủ về ơn gọi của mình trong Giáo hội mà không qui chiếu đến những người vốn chia sẻ với họ trong việc thực thi ý muốn của Đấng Sáng lập. Như vậy, họ tìm kiếm sự hiệp nhất lớn lao hơn của mọi người, đang khi vẫn bảo tồn sự đa dạng chân chính của từng người.”[19]

Hành trình hiệp nhất và hiệp thông suốt những năm này đã dẫn tới việc xuất bản ba văn kiện, vào những thời khác nhau; các văn kiện đó diễn đạt căn tính chúng ta và nhắm đến việc trợ giúp tiếp tục chính hành trình đó: Hiến chương về sự hiệp thông của Gia đình Salêdiêng Don Bosco, được cha Egidio Viganò chuẩn bị năm 1995 và được cha Juan E. Vecchi xuất bản năm 2000 dưới tựa đề: Hiến chương về Sứ mệnh của Gia đình Salêdiêng; và Thẻ Căn tính của Gia đình Salêdiêng được cha Pascual Chavez công bố năm 2012 và như một trái chín thơm, nó diễn đạt một căn tính đoàn sủng được thiết lập tốt đẹp.

Suốt thời kỳ lục niên này đã có một sự sinh động phong phú từ phía Văn phòng Thư ký (Secretariat) cho Gia đình Salêdiêng nhờ tiếp xúc với các tỉnh dòng và vùng, và sự đồng hành của các nhóm đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt từ chúng ta như những Salêdiêng Don Bosco. Tu Nghị chúng ta chắc chắn sẽ thực thi một sự kiểm chứng của Văn phòng Thư ký cho Gia đình Salêdiêng, như đã được thực hiện vào cuối lục niên trước.

Suy tư vốn đã trưởng thành và được chia sẻ trong 6 năm này cũng tích cực quanh những chủ đề chính sau:

à Trách nhiệm đồng hành mà chúng ta Salêdiêng Don Bosco có và phải có đối với gia đình Salêdiêng, như được giải thích trong khoản 45 của Thẻ Căn tính của Gia đình Salêdiêng.

à Sự hấp thụ diện mạo và vai trò của Giám tỉnh và ủy viên địa phương cho các nhóm thuộc Gia đình Salêdiêng đối với điều liên hệ đến sự phục vụ sinh động hoá của chúng ta.

à Việc chín muồi và cập nhật những tiêu chuẩn và điều kiện cần thiết để chính thức thuộc về Gia đình Salêdiêng.

Trong 6 năm kế tiếp sẽ có những khả thể quan trọng của việc thành tựu qua sự phối hiệp (điều phối) và suy tư chung giữa lãnh vực Đào luyện và Mục vụ Giới trẻ của Tu hội chúng ta về sự sinh động Gia đình Salêdiêng. Những hoa trái trồi hiện từ nỗ lực chung này sẽ tạo nên một đột phá trong thực tại hiện tại của chúng ta vốn đã hoàn toàn tích cực.

2.5. Salêdiêng sư huynh (Salêdiêng giáo dân) trong Tu hội

Don Bosco nói: “Có một số điều linh mục và tư giáo không thể làm, nhưng các con sẽ làm.”[20] Nhiều lần, khi kinh lý các tỉnh dòng của Tu hội trong năm lục địa, cha tự hỏi câu hỏi này: “Điều gì xảy ra cho ơn gọi của Salêdiêng sư huynh mà xem ra đang khủng hoảng?” Cha không ngần ngại đưa ra câu trả lời mà cha xét là đã đo lường và suy nghĩ đúng đắn suốt một thời gian. Cha sẽ cống hiến nó cho anh em, nhưng trước hết cha muốn bắt đầu với một vài dữ liệu.

Một sự kiện là, so sánh với 6 năm trước về điều này, con số hội viên sư huynh giảm thiểu. Theo dữ liệu sưu tập năm 2001, trước khi bắt đầu TTN25, con số là 2317; vào tháng 12 năm 2007, con số là 2092, nghĩa là ít hơn 225 hội viên thời kỳ 6 năm trước đó. Vào tháng 12 năm 2013, trước TTN27, con số hội viên sư huynh trong Tu hội là 1758: ít hơn 334 người trong 6 năm trước. Dữ liệu ta có vào cuối 2018 nói rằng có 1589 sư huynh, nghĩa là, ít hơn 169 hội viên; các sư huynh biểu thị 22.20% của toàn hội viên trong Tu hội.

Suốt vài năm nay Tu hội đã đặc biệt cam kết để đồng hành với thực tại của ơn gọi hội viên sư huynh trong các tỉnh dòng. Tất cả các Bề Trên Cả đều đã đảm nhận trách nhiệm này. Chúng ta cũng đã làm thế suốt 6 năm này. Ta đã thiết lập một số cộng thể hầu đảm bảo một sự huấn luyện biệt loại cho Salêdiêng sư huynh. Nói chung, các hội viên sư huynh chúng ta khắp nơi đều có phẩm chất tốt và hoàn thành những dịch vụ mục vụ rất quí báu, ngay cả trong các lãnh vực quản trị và điều hành. Khi qui chiếu tới hai hình thức của ơn gọi thánh hiến Salaêdiêng, chính TTN26 nhắc nhớ chúng ta rằng “chúng ta được gọi để dành ưu tiên và tính khả giác (visibility) cho sự duy nhất của sự thánh hiến tông đồ chúng ta, mặc dù nó mặc hai hình thức khác nhau (…). Vì ý thức rằng Tu hội sẽ đặt căn tính của mình lâm nguy nếu nó không bảo tồn được tính bổ sung này, nên chúng ta đều được gọi để hiểu sâu xa hơn sự đóng góp Salêdiêng độc đáo cho tác vụ linh mục; chúng ta đều phải nỗ lực hơn nữa để cổ xúy ơn gọi Salêdiêng sư huynh.”[21]

Giờ thì cha trở lại câu hỏi ban đầu: vì vậy, điều gì đang xảy ra? Trước tiên, chúng ta không thể nói rằng “vấn đề đó” liên quan đến các hội viên sư huynh. Cha không nghĩ với sự công bằng và trong ánh sáng của những phân tích kỹ lưỡng, người ta có thể xác quyết rằng các hội viên sư huynh của chúng ta đang kinh nghiệm một sự khủng hoảng căn tính trong ơn gọi của mình. Nói chung chung, họ không hoài nghi ơn gọi mình. Chính Tu hội chúng ta đang mang lấy gánh nặng của một chủ nghĩa giáo sĩ rất nặng vốn hiện diện rất nhiều trong Giáo hội cũng như giữa chúng ta. Vì cả những lý lẽ liên quan đến văn hóa thuộc những quốc gia khác nhau lẫn những lý lẽ của các nhóm sắc dân, có những tỉnh dòng, cách riêng trong những vùng Châu Phi, Nam Á, và Châu Đại dương, mà ở đó thực tại Salêdiêng sư huynh không hiện hữu. Có một áp lực từ môi trường tán trợ chức linh mục; nó ảnh hưởng tất cả mọi ơn gọi và có tính chất công kích đặc biệt. Một vài Tỉnh dòng ấy liều rơi vào nguy cơ không có bất kỳ một Salêdiêng sư huynh nào trong hàng ngũ của mình, không phải trong một tương lai quá xa đâu. Vấn đề ấy thật nghiêm trọng. Ta không thể coi nó là một đề tài ít quan trọng hay một đề tài được liên kết với những hoàn cảnh của thời khắc ấy. Đoàn sủng của chúng ta trong các tỉnh dòng này không thể được diễn đạt trong tất cả sự phong phú của nó – như một ơn gọi được sống trong hai hình thức – nếu một trong hai mất đi: “Tu hội chúng ta được làm nên bởi giáo sĩ và giáo dân vốn bổ sung cho nhau như anh em trong việc sống cùng một ơn gọi.”[22] Trái lại, trong những tỉnh dòng khác, luôn luôn có một chọn lựa rất rõ ràng được thực  hiện bởi sự cai quản để cổ xúy cả hai ơn gọi. Thí dụ ý nghĩa nhất là Việt nam: Tỉnh dòng đó ngày nay có hơn 68 Salêdiêng sư huynh, hầu hết là những người trẻ trong đào luyện. Thậm chí trước khi chỉ xét đến những nhu cầu của lãnh thổ mình, Việt nam đã làm một chọn lựa rất rõ ràng là tán trợ sứ mệnh truyền giáo ad gentes. Thực thế, có hơn 138 vị truyền giáo Salêdiêng Việt nam trong thế giới ngày nay.

Cha nêu ra thí dụ này để chỉ ra cho anh em rằng “diện mạothập giácủa một ơn gọi đồng hiện hữu trong cùng một thực tại [ghi chú của người dịch: cùng một ơn gọi sư huynh vừa hưng thịnh vừa phấn đấu trong cùng một bối cảnh địa lý]; sự kiện này xác quyết rằng không có khủng hoảng về ơn gọi của sư huynh, nhưng có một khủng hoảng về các khuôn mẫu và một khuynh hướng mạnh mẽ chỉ tán trợ ơn gọi tới chức linh mục. Sáu năm trước đây, trong bản tường trình cho TTN lần trước, Bề Trên Cả đã chỉ ra mối nguy rằng khuynh hướng giáo sĩ, nếu không được chú tâm nghiêm chỉnh, có thể dẫn tới sự tăng trưởng “một não trạng giáo sĩ và giai cấp” trong Tu hội.[23] Cha hoàn toàn đồng ý với xác quyết này.

Ơn gọi Salêdiêng được các hội viên sư huynh sống là một ơn gọi có sự thích đáng lớn lao và những khả thể đồ sộ cho công cuộc giáo dục và mục vụ trong xã hội ngày nay, trong những bối cảnh nơi đó diện mạo linh mục không được chấp nhận.

Chúng ta biết rõ rằng một ơn gọi tu sĩ chúng ta, được sống như tư giáo và giáo dân, tỏ lộ sự bình đẳng nền tảng và sự hiệp nhất sâu xa giữa chúng ta. Chiều kích trần thế của ơn gọi Salêdiêng sư huynh cho phép họ sống những đặc trưng của đời tu như một giáo dân được thánh hiến. Thày tham gia vào đời sống và sứ mệnh của Chúa trong Giáo hội, khởi từ việc thực thi chức linh mục phép Thánh Tẩy của mình: thày thực thi một sứ mệnh loan báo Tin Mừng và sự thánh hóa không mang tính bí tích vốn là riêng cho sự thánh hiến tu sĩ của thày và thực thi việc tông đồ của mình như một nhà giáo dục của giới trẻ trong rất nhiều chiều kích của đời sống, trong thế giới lao động và tương giao với những giá trị nhân bản và Kitô hữu khác nhau.

Cha Ricaldone diễn đạt cảm thức về sự hiệp nhất này trong đời sống và sứ mệnh của Salêdiêng linh mục và giáo dân (sư huynh) khi nói: “Những con cái của thánh Gioan Bosco cần sánh bên nhau làm việc, để kiện toàn lẫn nhau, để tiến bước cách huynh đệ hiệp nhất khi thực thi những mục tiêu đồng nhất của sứ mệnh (…). Họ không phải là những người tách biệt hay một cách nào đó là những người phân rẽ, song họ đều là những người thừa kế, những khí cụ và những người thực thi cùng một chương trình của Thiên Chúa”.[24]

Vì thế, lời hiệu triệu của cha ngày nay trở thành một tiếng gầm lên để nghiêm chỉnh xem xét tình trạng đó trong những nơi chốn mà ở đó diện mạo Salêdiêng sư huynh đang trở nên không hiện hữu: đây không phải là một vấn đề để những người khác giải quyết, nhưng đây là một vấn đề phải liên quan đến tình yêu của chúng ta đối với một ơn gọi biệt loại, một tình yêu mà từng người chúng ta ngày càng phải tỏ ra thấy được.

2.6 “Khả năng ơn gọi”

Đây là diễn đạt cha Vecchi dùng trong diễn từ kết thúc TTN24 để qui chiếu tới một nét đặc trưng, cụ thể là, nét đặc nét của một khả năng ơn gọi, như một phẩm chất cốt yếu mà phải làm cho mọi hội viên và cộng thể Salêdiêng nên nổi bật”.[25]

Ở đây là một thách đố lớn lao khác mà chúng ta đối diện ngày nay; thách đố đó sẽ luôn luôn và mãi mãi có đó!

Chúng ta đừng dấu diếm sự kiện rằng mặc dù trung bình chúng ta có được 440 tập sinh mỗi năm, thì những thay đổi và biến đổi lớn lao vẫn đang xảy ra trong “địa lý ơn gọi” chúng ta.

  • Chung chung, tỷ lệ phần trăm của tập sinh tuyên khấn lần đầu liên lỷ gia tăng trong tất cả mọi vùng của Tu hội; sự kiên trì (bền đỗ) trong những năm đào luyện ban đầu đang tăng trưởng cách ý nghĩa, khi ghi dấu một sự gia tăng 25-32% trong 15 năm qua, mặc dù con số tập sinh có rớt xuống.
  • Tuy nhiên, “lời đáp trả ơn gọi” của các ứng sinh vào đời Salêdiêng ở Âu châu và trong những Vùng Trung Mỹ và Nam Mỹ hình chóp thì suy giảm. Sánh với những năm trước, con số thì thấp hơn trong tất cả các Tỉnh ở Ấn độ, trong một vài tỉnh dòng ở Phi châu và trong một vài tỉnh của Đông Á – châu Đại dương.
  • Những Tỉnh dòng khác ở Phi châu và một số Tỉnh dòng thuộc Đông Á- châu Đại dương lại đang kinh nghiệm một sự tăng trưởng ơn gọi.

Chắc chắn chúng ta cần chú ý đến những thay đổi và phát triển này.

Chúng ta phải nên ý thức về chúng, học hỏi chúng sâu xa cũng như theo ánh sáng của các dữ kiện thống kê. “Khả năng ơn gọi” phải là một dấu phân biệt của mọi Salêdiêng. Khi chúng ta thực thi một tác vụ mục vụ giới trẻ đúng đắn (thích hợp) và giáo dục đức tin chân chính, nó dẫn tới một văn hoá ơn gọi trong đó mọi chọn lựa đời sống trở thành khả thể, kể cả đời thánh hiến.

Chúng ta biết rằng “chúng ta giáo dục giới trẻ phát triển ơn gọi nhân bản và phép Thánh Tẩy của chúng bằng một đời sống thường nhật được Tin Mừng tiệm tiến khởi hứng và thống nhất.”[26] Vì thế, trong thực hành sư phạm Salêdiêng, việc chọn lựa một ơn gọi biểu thị kết quả chín muồi mà mọi người trẻ phải đạt đến khi họ lớn lên trong nhân bản và đức tin Kitô hữu. Khuôn mẫu giáo dục của chúng ta có những yếu tố rất đẹp vốn phải hình thành bản thể của khả năng ơn gọi chúng ta; cũng như tạo cho chúng ta tin chắc rằng thời bây giờ cũng thuận lợi để gieo trồng các hạt mầm hy vọng. Giúp đỡ mọi thiếu niên, thiếu nữ và giới trẻ; cổ xuý chúng tăng trưởng trong sự tự trọng; đồng hành với chúng trong việc khám phá nhiều giá trị hiện diện trong cõi lòng và đời sống chúng; giúp cho giới trẻ khám phá rằng để trao hiến chính mình thì cảm nhận hạnh phúc và vì thế là một lý lẽ để thực thi sự quảng đại và sẵn sàng; theo nhịp độ của mỗi người trẻ, có thể làm được những đề xuất minh nhiên liên quan đến mọi loại ơn gọi (ngay cả khi người ta tri nhận tiếng gọi đến đời thánh hiến); cổ xuý sự đồng hành và phân định của họ – tất cả các điều này quả là thiết thân với khả năng ơn gọi tự nhiên của chúng ta và hẳn nhiên với niềm hy vọng và một thách đố quan trọng cho tương lai tức thời của chúng ta.

Cha không nhắm thêm bất kỳ điều gì khác về đề tài này. Để diễn đạt tính khẩn cấp của thách đố này, cha nghĩ gợi nhắc điều cha đã viết ở cuối TTN27 là đủ: “Chúng ta là những nhà loan báo Tin Mừng của giới trẻ; như một Tu hội, như cộng thể Tỉnh và địa phương cụ thể, chúng ta phải sống và tăng trưởng trong một tình yêu mục vụ chân chính đối với giới trẻ. Sẽ thật khó khăn để làm điều này nếu chúng ta không làm cho lời loan báo về Chúa Giêsu cho giới trẻ thành một vấn đề ưu tiên và khẩn cấp, và đồng thời không có khả năng đồng hành với chúng trong những hoàn cảnh đời sống của chúng. Điều này phải là sức mạnh của ta: đồng  hành với từng người trẻ trong hiện trạng của họ; song đây lại thường là một trách vụ chúng ta nhường cho kẻ khác, hoặc một trách vụ mà chúng ta nói rằng mình không biết làm thế nào. Trong việc đồng hành này khởi sự với văn hoá ơn gọi mà chúng ta nói đến rất nhiều có tầm quan trọng sinh tử. Chúng ta lại chưa thành công trong điều này.”[27]

  1. Đáp lại những nhu cầu sinh động hoá và cai quản

3.1. Sự sinh động của Bề Trên Cả qua những cuộc thăm viếng của ngài trong Tu hội suốt 6 năm qua

Một trong những mục tiêu mà cha muốn theo đuổi như Bề Trên Cả, là đồng hành, nhiều bao có thể, với những tỉnh dòng của Tu hội. Điều này, cha chia sẻ với ban Tổng Cố vấn và chúng tôi cùng nhau lượng giá rất tích cực. Vì lẽ này, những cuộc Bề Trên Cả thăm viếng để sinh động và trợ giúp cho việc cai quản của các Tỉnh dòng thì quan trọng và ý nghĩa.

Suốt thời kỳ lục niên qua, cha đã có dịp thăm tất cả các Tỉnh dòng và Á Tỉnh của Tu hội, cũng như những phụ Tỉnh khác nhau vốn có những đặc tính của “những hiện diện” trong một bối cảnh địa lý đặc thù, mặc dù thuộc về lãnh địa của một Tỉnh dòng hay Á Tỉnh. Chẳng hạn, đây là trường hợp của Belarus, Mongolia, Nepal, v.v.

Hiển nhiên, tổ chức những cuộc thăm viếng này đòi hỏi một nỗ lực đáng kể cũng như liên lỷ thực thi kỷ luật và phương pháp trong việc hoạch định nghị sự của Bề Trên Cả. Dù sao chăng nữa, trách vụ này cũng được ban thưởng bởi niềm vui là có thể cống hiến cho các hội viên cơ hội để diễn đạt mạnh mẽ sự hiệp thông của họ với phần còn lại của Tu hội.

Tổng cộng cha đã thăm 100 quốc gia.

Các hội viên Salêdiêng mà cha có thể gặp và chào hỏi, với họ cha có thể nói đôi lời và cùng với họ cha cử hành Thánh Thể và chia sẻ một số thời khắc vui tươi, là khoảng 13.100, nghĩa là, sấp xỉ 92.25% của Tu hội. Hẳn nhiên đây là một trong những khía cạnh ý nghĩa nhất của 6 năm qua. Trong nhiều dịp cha đã lặp đi lặp lại rằng sự kiện Bề Trên Cả có thể đích thân gặp các hội viên Salêdiêng của mình thì rất quan trọng và phấn khởi, và riêng nó hoàn toàn biện chính việc Bề Trên Cả có thể du hành khắp thế giới Salêdiêng trong 6 năm của nhiệm vụ ngài. Đồng thời, đối với cha, có thể biết tất cả các tỉnh dòng và thu gom nhiều yếu tố tốt đẹp để thực thi trách vụ của cha như Bề Trên Cả và giúp Ban cố vấn trong việc phục vụ khi sinh động và cai quản Tu hội quả là rất quan trọng.

Trong những cuộc thăm viếng này cha gặp nhiều nhóm khác nhau của Gia đình Salêdiêng trên khắp thế giới. Thật là một kinh nghiệm rất ý nghĩa và đồng thời, hiếm có. Nó cho phép cha thấy thực tại đẹp đẽ chúng ta có, cảm thức ngoại thường về sự thuộc về và sự hiệp thông hiện có, cũng như niềm tri ân từ phía tất cả các nhóm đối với Bề Trên Cả như người cha của Gia đình Salêdiêng, điểm qui chiếu và người đảm bảo sự hiệp thông đoàn sủng chúng ta nhân danh Don  Bosco.

Tất cả các Tỉnh dòng và Á tỉnh của thế giới đó cố gắng hết sức cho cuộc thăm viếng của Bề Trên Cả, khi thấy nó là một cơ hội ngoại thường. Những buổi gặp gỡ tiếp theo của Bề Trên Cả không bao giờ bị bỏ đi:

  • cuộc họp với các hội viên – ở một, hai hoặc ba chỗ, để số hội viên lớn nhất đều có thể tham dự.
  • buổi họp với các thành viên của Ban cố vấn Tỉnh suốt một vài giờ. Vị cố vấn vùng của khu vực đó thường hiện diện trong những buổi họp này.
  • buổi họp tại một, hai hoặc ba nơi chốn với Gia đình Salêdiêng của quốc gia đó hay của lãnh thổ trong đó một tỉnh dòng được thiết lập.
  • một hay nhiều hơn những buổi họp ý nghĩa với giới trẻ của từng Tỉnh dòng.

3.2. Sự sinh động và cai quản của Tu hội và của Tỉnh dòng

Từ lúc đầu của 6 năm qua, chúng tôi tri nhận rất rõ rằng sự sinh động và cai quản của Tu hội, ở bình diện thế giới rộng khắp và các tỉnh riêng, phải là một ưu tiên. Lịch sử Tu hội, mà  nay trên 100 năm, dạy chúng tôi rằng sự sinh động mà không có sự cai quản sẽ dẫn tới một tình trạng bình lặng bề ngoài trong đó làm mọi sự ta muốn có thể được coi là hợp pháp, song cơ bản điều ấy để lại những bất mãn lớn lao vì nó không tương ứng với yếu tính của đời tu hoặc đời Salêdiêng. Đàng khác, sự cai quản mà không có sự sinh động, sự hiện diện huynh đệ, tình cha và đồng hành có thể biến thành một sự quản trị độc đoán và phương hại Tu hội và các Tỉnh dòng cách nghiêm trọng.

Vì lẽ này, ngay từ đầu của thời kỳ lục niên, chúng tôi dành ưu tiên cho một sự gần gũi và đồng hành với Giám tỉnh và Ban cố vấn ngài như một trợ giúp để sinh động hoá và cai quản Tỉnh dòng. Sự cam kết này đã được thực hiện bằng hai sáng kiến mà, theo ý kiến của các Giám tỉnh tham dự vào, giúp ích rất nhiều.

– một buổi gặp gỡ đầu tiên với Giám tỉnh và sự uỷ thác một “hải trình”. Một khi một hội viên tỏ lộ sẵn lòng phục vụ như Giám tỉnh, ngài được mời đến Roma khoảng một tháng sau khi được bổ nhiệm để cá nhân gặp gỡ Bề Trên Cả, Phó Bề Trên Cả, Tổng Quản lý và các vị Tổng Cố vấn phụ trách những lãnh vực khác nhau. Vào cuối cuộc thăm viếng đó, Bề Trên Cả gởi một lá thư cho Giám tỉnh mới trong đó ngài cám ơn vì sự sẵn sàng của giám tỉnh, thông tri điều mà các hội viên của Tỉnh dòng đã diễn đạt khi tham khảo để phân định nhắm đến việc bổ nhiệm (cụ thể là, điểm mạnh và yếu của Tỉnh dòng), và cuối cùng cống hiến một vài chỉ định về điều ngài phải chú tâm nhiều ngay khi ngài bắt đầu phục vụ. “Hải trình” này trước tiên và trên hết là một dụng cụ cho Giám tỉnh và Ban cố vấn, mà – nếu họ coi là thích đáng – có thể ít là các Giám đốc, nếu không phải là tất cả các hội viên, đều biết đến.

Như cha đã nói, cho đến nay, tất cả các Giám tỉnh đã nhấn mạnh và trân trọng sự trợ giúp lớn lao được cống hiến qua những chỉ định này như một hướng dẫn khi họ khởi sự phục vụ.

– Tuần linh đạo cho các Giám tỉnh khởi sự năm thứ tư của họ.

Vào cuối năm thứ ba hay bắt đầu năm thứ tư của sự phục vụ của mình, các Giám tỉnh – thường là theo các nhóm 10-14 người – cùng qui tụ ở Turin suốt tuần cuối tháng 9, vốn trùng khớp với cuộc gặp gỡ để trao thánh giá cho các hội viên truyền giáo thuộc về cuộc viễn chinh truyền giáo hằng năm. Nó là một tuần linh đạo, thanh thản, cầu nguyện và Salêdiêng trong những nơi chốn làm thành ký ức lịch sử chúng ta; các Giám tỉnh có cơ hội lớn lao để cầu nguyện và suy tư vốn cho phép Chúa và sự thánh thiện của những linh địa Salêdiêng chạm đến cõi lòng họ. Họ được ban cho cơ hội để gặp gỡ Bề Trên Cả và Phó Bề Trên Cả hầu duyệt lại sự phục vụ của họ trong 3 năm đầu tiên, soạn thảo một sự lượng giá ban đầu, và hoạch định với sự thanh thản và hy vọng cho thời gian còn lại của họ trong chức vụ.

Cho đến nay, tất cả các Giám tỉnh đã miêu tả thời kỳ này như là một trong những thời kỳ đẹp nhất và mãnh liệt nhất trong đời Salêdiêng của mình, xa khỏi những nhu cầu cấp bách và những nhịp điệu đòi hỏi của đời sống hằng ngày trong các Tỉnh dòng của họ.

Qua hai sáng kiến này của thời kỳ lục niên qua, vốn đã được thêm vào buổi gặp gỡ đào luyện của các Giám tỉnh mớinhững cuộc thăm viếng tập thể, cả hai đều là một gia sản của truyền thống Salêdiêng, đã xảy ra một sự đồng hành chân chính của các Giám Tỉnh và ban cố vấn tương ứng của họ. Điều này đã làm cho việc cống hiến sự trợ giúp và hỗ trợ lớn lao cho các Giám tỉnh thành có thể được; nó làm cho Bề Trên Cả và ban cố vấn ngài nên gần gũi cụ thể và khả giác đối với từng Giám tỉnh. Nó cũng làm cho việc hiểu biết đời sống của các tỉnh dòng nên có thể được, kể cả đời sống hằng ngày nữa. Bằng cách này Bề Trên Cả có thể hiểu biết tốt đẹp hơn về các tỉnh dòng cũng như hiểu được những nhu cầu và khó khăn của từng thực tại trong Tu hội.

– Sự gần gũi với các Tỉnh dòng với những khó khăn đặc thù.

Đời sống của các Tỉnh dòng không thuần nhất hay đồng phục. Dù căn tính đoàn sủng là một, thì lịch sử đặc thù của từng tỉnh dòng, con đường độc đáo được theo đuổi – trong một vài trường hợp suốt cả hơn 100 năm và trong những tỉnh dòng khác chỉ mới đặt nền – và những khác biệt văn hoá, sắc dân, xã hội, chủng tộc và quốc gia, đã khiến một số trong họ kinh nghiệm những khó khăn đặc thù trong việc cai quản, trong việc quản trị tài sản, trong những khủng hoảng chính trị và kinh tế của quốc gia họ, trong những đối kháng được vũ trang, v.v.

Danh sách của các Tỉnh dòng cần trợ giúp, không chỉ kinh tế mà còn trong sinh động và cai quản, thì dài. Cha tin mình có thể nói rằng Bề Trên Cả và ban cố vấn đã dành ưu tiên để gần gũi với những tỉnh dòng và hội viên này. Trong một số trường hợp, Bề Trên Cả, vị Phó Bề Trên Cả và Tổng Quản lý cũng như những cố vấn về các lãnh vực khác nhau đã ở kề bên để đồng hành và giúp các tỉnh dòng gặp những khó khăn đặc thù.

3.3. Hoạt động cai quản của Bề Trên Cả và Ban Cố vấn ngài trong việc bổ nhiệm Giám tỉnh, Ban cố vấn Tỉnh và các Giám đốc các Cộng thể Salêdiêng khắp thế giới

Có lẽ đã rõ ràng, nhưng cha muốn nhấn mạnh một điều mà chúng tôi đã xử lý với sự chú tâm đặc biệt trong ban Tổng Cố vấn tới mức nó là một vấn đề có tầm quan trọng nhất, cụ thể là, bổ nhiệm Giám tỉnh. Chúng tôi đã rất nghiêm chỉnh học hỏi những kết quả của sự tham khảo, khi dành thời gian cần thiết để làm một sự phân định đúng đắn. Chúng tôi đã luôn tìm cách bổ nhiệm, theo những khả thể, các Giám tỉnh thích hợp nhất cho hiện trạng thực tiễn của Tỉnh dòng. Cha có thể nói rằng chúng tôi hạnh phúc với cách thức chúng tôi thực thi trách vụ này. Ta cũng nói cùng điều đó về việc chỉ định các cố vấn tỉnh. Chúng tôi dành nhiều giờ thảo luận về từng người, cũng nhờ vào sự kiện là một số hay nhiều thành viên của ban Tổng Cố vấn đã biết các ứng sinh đó cách tốt đẹp.

Sự chú tâm dành cho các Giám đốc của các cộng thể không kém ý nghĩa. Trong một số trường hợp chúng tôi phải treo việc phê chuẩn những người được chỉ định để tìm những soi sáng hay để thông tri rằng không thể chấp nhận những người được bổ nhiệm bởi vì có những phản chỉ định. Tiến trình nhận diện và chỉ định các giám đốc cho các nhà đào luyện trong vùng còn đòi hỏi hơn nhiều. Nhờ vào tất cả nỗ lực và phân định này, chúng tôi chắc chắn – nói theo kiểu nhân loại, theo những khả thể của mình – rằng chúng tôi đã cung cấp những ứng sinh tốt cho những cộng thể này. Một vài lần chúng tôi đã xin một Giám tỉnh hay một nhóm Giám tỉnh của một curatorium để tìm ra một ứng sinh với một hồ sơ thích hợp hơn, bởi vì chúng tôi thâm tín rằng những giai đoạn của đào luyện ban đầu điều kiện hoá cái hiện tại và thậm chí hơn nữa cái tương  lai của Tu hội.

3.4. Sự nâng cao việc phục vụ được Phó Giám tỉnh cống hiến

“Phó Giám tỉnh là cộng sự viên đầu tiên của Giám tỉnh trong mọi sự liên quan đến sự cai quản thông thường của Tỉnh dòng, cũng như trong những lãnh vực được trao cho ngài cách biệt loại.” Với những lời này HL chúng ta trong khoản 168 định nghĩa vai trò và diện mạo của Phó Giám tỉnh. Dường như không có gì khác để thêm vào nữa. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua chúng tôi đã thấy rằng trong phần đa tỉnh dòng, Phó Giám tỉnh đã có tầm quan trọng sinh tử như là một sự trợ giúp cho Giám tỉnh, khi cộng tác với ngài trong việc gìn giữ tỉnh dòng được mạnh mẽ, khi cùng ngài xử lý những tình trạng khó khăn hơn và chính mình đảm lấy sự phục vụ là đồng hành trong việc giải quyết những tình trạng bất thường, v.v.

Không may, chúng ta phải chỉ ra rằng một số lớn tỉnh dòng không có một Phó Giám Tỉnh toàn tâm toàn lực để thực thi những chức năng được bổ nhiệm cho ngài. Tiếc thay, việc thiếu nhân sự đã khiến Giám tỉnh chất chồng trên Phó Giám Tỉnh – cũng là giám đốc một nhà, một vai trò có lẽ làm cho ngài luôn bận bịu – với nhiều trách nhiệm khác, do vậy một cách hiệu quả ngăn cản ngài không thi hành được những bổn phận đặc thù của mình, tách mình khỏi những cuộc trao đổi đối thoại với Giám tỉnh và sự hiện diện của ngài trong ban cố vấn Tỉnh.

3.5. Một lục niên “thanh tẩy”

Nếu trong những bản tường trình của hai thời kỳ 6 năm trước, Bề Trên Cả nói về hai vấn đề kêu gọi suy tư – một liên quan đến những lạm dụng tình dục – cha nghĩ cha có thể đưa ra một lượng giá được xem xét cẩn thận và thanh thản bằng cách nói rằng trong Tu hội chúng ta đã sống một thời kỳ 6 năm của ân sủng và thanh thản dưới nhiều quan điểm, và đồng thời một thời kỳ 6 năm vốn một cách phiền khổ đang dẫn và sẽ dẫn chúng ta tới một “sự thanh tẩy” chân chính vốn làm cho chúng ta trung thành hơn với tiếng gọi chúng ta nhận từ Chúa.

Vào đầu thời kỳ 6 năm này chúng tôi thấy rằng Tu hội đã bị nặng nề bởi một gánh nặng. Nó là gánh nặng của một số lớn gọi là những tình trạng “bất thường”. Một số trong chúng thì gần đây hơn, một số khác đã không được giải quyết suốt một thời gian dài, hoặc bởi vì sự vô ý và lãng quên hoặc bởi vì đã không biết làm thế nào để hiểu và giải quyết những tình trạng đau buồn. Công việc được làm trong Ban Tổng Cố vấn bằng cách giải quyết những tình trạng này, với sự đồng thuận của những tỉnh dòng tương ứng cũng như không phải là không có sự nhấn mạnh từ phía chúng tôi, đã dẫn tới sự ổn định của nhiều tình trạng này.

Tuy nhiên, cha phải nhấn mạnh rằng điều quan trọng không phải là giải quyết một tình trạng bất thường trong chính nó, nhưng sự kiện rằng như một Tu hội, chúng ta cảm thấy tự do hơn, được an tâm hơn và ngày càng ý thức hơn rằng không có những lối tắt trên lối đường trung thành với ơn gọi. Như các hội viên, chúng ta ý thức và sẽ ý thức hơn nữa về sự mỏng dòn nội khởi liên quan đến chính mình; đồng thời chúng ta thấy rằng bằng cách tuyên bố mình là Salêdiêng Don Bosco, chúng ta xác định ngay cả bây giờ rằng chúng ta ao ước và muốn là những người Salêdiêng như Don Bosco đã mơ về chúng ta, nghĩa là, sống đời chúng ta như những tu sĩ được thánh hiến với tính chân thật lớn lao bao có thể. Theo nghĩa này, sự thanh tẩy là một ân sủng và phúc lành.

3.6. “Thày dòng hay không thày dòng, tôi ở lại với Don Bosco.”[28]

Khi cha trích dẫn Gioan Cagliero, người hội viên thân yêu, một vị truyền giáo vĩ đại, một người của Tu hội, cha muốn ám chỉ đến một khía cạnh khác mà cha thú nhận gây cho cha nhiều nỗi đau. Cha qui chiếu đến những hội viên – khoảng 20 đến 25 người mỗi năm – mà với sự đồng thuận của Ban Tổng Cố vấn, trình bày lời xin của họ lên Đức Thánh Cha để rời bỏ Tu hội nhắm đến việc họ gia nhập vào một địa phận mà họ đã chọn, theo giáo luật. Nỗi đau của cha không phải là việc mất một hội viên – chung chung, trừ phi vị Giám mục từ chối họ sau một thời gian, họ thường không trở về Tu hội nữa – không phải là sự kiện rằng một hội viên rời bỏ sau khi đã nhận được một sự đào luyện tri thức và với một kho kinh nghiệm tốt đẹp. Không phải là điều đó. Điều làm cha đau buồn là nó làm cha tự hỏi: đâu rồi tình yêu dành cho Don Bosco vốn đã dẫn Gioan Cagliero nói lên lời minh xác rất ý nghĩa đó?

Thường thường những hội viên này nói rằng họ mang Don Bosco trong tim mình. Cha không có lý lẽ để nghi ngờ họ. Nhưng việc đó không là như nhau. Họ sẽ làm tốt như những linh mục. Chắc chắn rồi. Thế nhưng việc đó không là như nhau. Trái tim của một người Salêdiêng, kể cả Salêdiêng linh mục, là một trái tim vốn suy nghĩ, ước mơ, đau khổ và tiêu hao chính mình trong sự tự hiến và phục vụ giới trẻ. Đó là trái tim của một người mà như Don Bosco nói: “Cha nguyện hứa với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng, cha sẽ tận hiến hoàn toàn cho các trẻ nghèo của mình.”[29] Đó là trái tim của một người bạn, người anh và người cha đối với những người trẻ không có bạn bè, không có anh em và không có cha hiền; và hẳn nhiên, các trẻ đó sẽ chẳng tìm thấy điều này nơi những hội viên đó, bởi vì họ đã bỏ họ lại và ôm ấp một đời sống khác. Đó là trái tim của một Salêdiêng yêu mến Tu hội và hội viên mình, và vì lẽ đó công bố những lời này trước TC: “Hoàn toàn tự do con dâng hiến mình hoàn toàn cho Cha, Con tự cam kết hiến tất cả sức lực cho những người Cha sẽ sai con đến, cách riêng giới trẻ nghèo khổ hơn, sống trong Tu hội Salêdiêng trong sự hiệp thông tinh thần và hành động với anh em con.”[30]

Điều gì nằm sau sự chọn lựa của những linh mục đó?

Các học giả  nhận diện cách riêng những dấu hiệu yếu đuối sau đây: “Thường xuyên bỏ đời sống tu sĩ đang khi lại hút vào đời sống cha xứ, sự gánh vác dễ dàng những giáo xứ bởi các Tu hội và quan tâm cao độ đối với chúng như những chỗ náu thân và “tái chế” hơn là như những trung tâm thực sự để thực thi sứ mệnh (…), những sự không kiên định (không ổn) của người trẻ mà trong suốt thời gian đào luyện tìm thấy hiểu căn tính biệt loại của linh mục tu sĩ quả là khó khăn và kinh nghiệm những tình trạng đầy tính hàm hồ.”[31]

Có nhiều yếu tố vốn đồng hiện hữu trong những tình huống như thế, và những động cơ thì không luôn luôn như nhau hay cũng rõ ràng. Tuy nhiên, nhìn tới tương lai, hiện tượng này dạy chúng ta rằng chúng ta có một sự thiếu hụt trong vấn đề căn tính đoàn sủng Salêdiêng chúng ta.

Theo ánh sáng của suy tư được GC26 thực hiện có một nguy cơ, với sự qui chiếu đặc biệt đến các linh mục Salêdiêng, là chủ nghĩa chung chung về mục vụ, (pastoral genericism) bởi vì ta không nhận ra tinh thần của Đấng Sáng lập chúng ta trong cách họ sống và trong cách họ chuyển giao nó, cũng như một chủ nghĩa cá nhân tông đồ (apostolic individualism) vốn thường dẫn họ tới việc đảm trách những cam kết và công việc mục vụ vốn xa khỏi cái luận lý của đời tu. Nhân danh những công việc tông đồ này họ tìm cách biện chính sự vắng mặt của họ khỏi cộng thể, biện chính họ không thích hợp cho đời huynh đệ; biện chính họ cần phải có quản trị cá nhân về mọi sự họ làm, sự tự quản của họ trong những vấn đề kinh tế, kể cả tính trong sáng, v.v.

Đã qua lâu rồi cái thời mà một vài người quen nói: “Đủ rồi Don Bosco! Đủ rồi sự qui chiếu về mình!” Ngày nay, trong một thế giới chịu sự thay đổi mau chóng trong các giá trị, cha nói rằng giống như người khát cần nước, các Salêdiêng hôm nay và ngày mai phải có một căn tính đoàn sủng mạnh mẽ, và tình yêu dành cho Chúa Giêsu phải thấm nhập tiếng gọi vốn làm chúng ta, cùng với các hội viên Salêdiêng khác, quay nhìn về Don Bosco và những thiếu niên nghèo nhất. Rõ ràng chúng ta cần phải làm cho hiển nhiên rằng ta phải tìm thấy cội rễ của hai hình thức sống một ơn gọi thánh hiến đó ở nơi đâu, như những Salêdiêng Don Bosco,.

3.7. Sự trong sáng và liên đới tài chính và tính sẵn đấy của các hội viên

“Trách nhiệm, tính trong sáng, và sự duy trì niềm tin tưởng là những nguyên lý tương tác nhau: không có trách nhiệm được trao ban mà không có sự trong sáng, sự trong sáng sinh ra tin tưởng, tin tưởng lại kiểm chứng cả hai.”[32]

Sự trong sáng phần nào là một kết quả (đầu ra) mà được đạt đến và đồng thời là một thách đố lớn chúng ta luôn đối diện. Cha có thể đảm bảo rằng nó đã là một ưu tiên cho Bề Trên Cả và Ban cố vấn ngài suốt 6 năm qua, và đã được khuyên đi nhủ lại cho tất cả các Giám tỉnh của Tu hội chúng ta.

Chúng ta phải thực thi sự trong sáng trong những khía cạnh khác nhau của đời thánh hiến. Tất cả chúng ta hiểu ngay rằng nó liên quan đến việc dùng của cải và quản trị chúng. Một trách nhiệm lớn nằm trên vai chúng ta về việc chúng ta dùng của cải.

Cha thích chỉ ra một số khía cạnh có tầm quan trọng đáng kể:

  • Tiêu chuẩn đầu tiên và chính yếu để quản trị thích đáng không thể là tiêu chuẩn đạt được những phúc lợi và thuận lợi cá nhân.
  • Những quyết định về quản trị, đang khi kính trọng tính chất đạo đức của điều được làm hay quyết định, phải luôn luôn có được những động cơ nhất quán.
  • Trách nhiệm cũng hàm ý rằng phải luôn có một sự giải trình cho một ai đó (luôn có một sự giải trình cho xã hội dân sự, cho Giáo hội và cho Tu hội).
  • Sự trong sáng này phải được tìm kiếm, khi biết rằng những đòi hỏi của việc giám sát và điều khiển “không được hiểu như giới hạn sự tự quản của các cơ sở hay như một sự thiếu tin tưởng, nhưng đúng hơn, như biểu thị một phương thế cho sự thông giao và sự trong sáng cũng như mang lại sự bảo vệ cho những người thực hiện các trách vụ quản trị tế nhị.”[33]

Cha tin rằng cha có thể nói trong Tu hội, chúng ta đang dần dần tiến tới theo lối đường trong suốt và trách nhiệm. Những nỗ lực liên lỷ mà chúng ta làm suốt những năm qua mang lại hoa trái. Một sự nâng đỡ quan trọng cũng được ban tặng, cách riêng trong một số lục địa, qua việc thay đổi não trạng do các luật lệ dân sự vốn ngày càng đòi hỏi tính hợp pháp và đúng đắn đã thực hiện. Không thể chối cãi, lời dạy và suy tư về việc sử dụng các phương tiện của chúng ta luôn rất rõ ràng trong huấn quyền của Tu hội, từ HL và QC tới những TTN khác nhau. Ở đâu những hướng dẫn và chỉ thị không được tuân theo, thì do sự mỏng dòn con người cũng như thiếu các tài khéo và sự uy tín hơn là do thiếu những chỉ dẫn và chỉ thị thích hợp.

Để xác quyết điều cha đang nói, cha lặp lại một xác minh quan trọng của TTNĐB: “Những người đảm trách quản trị những của cải như thế, cũng như việc rất cẩn thận cung cấp một sự quản trị lành mạnh vốn đảm bảo sự tuân giữ nghèo khó tập thể và cá nhân, sẽ hành động như những người canh giữ của cải của Giáo hội; họ sẽ không cho phép bất kỳ một sự sử dụng chúng cách cá nhân hay phi lý. Bằng cách liên lỷ ghi nhớ trong trí rằng điều họ đang quản trị là hoa quả quí báu của các hội viên và là dấu chỉ chạm được về Chúa Quan phòng mà, qua sự quảng đại và những hy sinh – đôi khi vượt xa mọi tính toán – của các ân nhân, làm chúng ta có thể tiếp tục…”[34]

Như một kết quả của sự tiến bộ được thực hiện trong lãnh vực này, cha thích chỉ tới sự suy giảm dần trong những “kế sách gian giảo” và sự phương hại kéo theo đối với những lời xin Bề Trên Cả cho sự trợ giúp tài chính, cũng như qua ngài, cho những văn phòng truyền giáo (missionary procures). Ngày nay những dữ liệu được trình bày khi những yêu cầu được thực hiện để giúp đỡ trong lãnh vực đào luyện thì thực tiễn hơn và chân chính hơn. Ngày càng có ít hơn nữa những trường hợp trong đó một số người xin cùng sự đóng góp từ một vài “cơ quan” và thành công. Đây không phải là “sự gian giảo”, càng ít hơn nó mang tính “tin mừng”. Một sự trợ giúp lớn lao trong việc chấm dứt những bóp méo này đã là một sự điều phối lớn lao hơn giữa văn phòng Tổng Quản lý và những văn phòng truyền giáo cũng như việc chia sẻ thông tin.

Một quyết định được GC27 lấy là một bước tiến tới lớn lao, bởi vì ý nghĩa của nó cũng như vì sự trợ giúp tài chánh thực sự được cung cấp trong những năm khó khăn mà chúng ta đã kinh nghiệm tại Direzione Generale Opere Don Bosco về những đối kháng pháp lý (về “vụ việc Gerini” mọi người đều biết). Tình liên đới của các Tỉnh dòng, theo những khả thể khác nhau của họ, để giúp vào việc hỗ trợ Bề Trên Cả và Ban cố vấn ngài hầu phục vụ sự sinh động và cai quản cũng như của cộng thể Salêdiêng vốn giúp đỡ ngài vì thiện ích của toàn Tu hội trong thế giới là có thể được.

Sự trợ giúp này rất quan trọng. Không ít dịp nó đã giúp đáp ứng những tình trạng khẩn cấp mà chúng ta kinh nghiệm cả ở trụ sở trung ương chúng ta và trong một vài tỉnh dòng. Cha muốn lợi dụng cơ hội này để diễn đạt niềm tri ân của cha đối với sự quảng đại mà mọi người biểu lộ. Và cha canh tân lời xin trợ giúp cho mục đích này. Đồng thời, trong sự năng động của tình liên đới và hiệp thông, Bề Trên Cả và ban cố vấn ngài, đặc biệt qua những người ủy nhiệm lệ thuộc ngài trực tiếp, sẽ đồng hành và nâng đỡ gần hai phần ba các tỉnh dòng của Tu hội với một loại trợ giúp nào đó cho những mục đích đào luyện, xây cất những cơ sở giáo dục và những nhu cầu khác.

Cha cám ơn anh em một lần nữa vì luôn tỏ ra quảng đại hơn mãi, từ quan điểm tài chánh, bởi một số tỉnh dòng khá giả đối với những tỉnh dòng nghèo hơn. Điều ấy thật rất khởi hứng và đẹp đẽ.

Cuối cùng, cha muốn nhấn mạnh một hình thức liên đới còn quan trọng hơn hình thức mà cha vừa đề cập. Cha đang qui chiếu tới một tình liên đới theo diện trao đổi các hội viên giữa các tỉnh dòng khác nhau. Không cần phải nói nhiều hơn về điều mà chúng ta đều biết. Tất cả chúng ta tuyên xưng là Salêdiêng Don Bosco trong Tu hội Salêdiêng. Sự tuyên khấn tu sĩ trước Chúa không được làm cho một tỉnh dòng hay một quốc gia. Vì lẽ này, các hội viên thân mến, sau một khởi sự còn dè dặt lúc ban đầu trong sáu năm qua, thì  sáu năm kế tiếp sẽ phải được ghi dấu nhiều hơn nữa bởi sự trao đổi, biếu tặng và sẵn sàng hỗ tương này về phía các hội viên của những tỉnh dòng được chúc lành với con số ơn gọi lớn lao – và thường là những tỉnh dòng nghèo nhất – vì sứ mệnh mục vụ giới trẻ mà Tu hội được kêu gọi để thực thi trong mọi miền thế giới. Nhiều quốc gia mời gọi chúng ta mở những sự hiện diện mới và chúng ta không thể từ chối đáp ứng vì viện lẽ nhân sự không có sẵn. Hẳn nhiên chúng ta sẽ phải lấy một vài bước quan trọng trong hướng này. Dường như sẽ không công bằng khi các Tỉnh dòng có nhiều ơn gọi hơn và tăng trưởng lớn mạnh hơn cứ tiếp tục nhận mọi loại trợ giúp từ phần còn lại của Tu hội, song lại không sẵn lòng cống hiến sự giàu có họ đang sở hữu. Một sự giàu có mà, như trong Công vụ Tông đồ, không hệ tại ở vàng hay bạc nhưng trong chính Chúa Giêsu Kitô nơi con người các hội viên Salêdiêng vốn sẵn sàng phục vụ cách quảng đại ở bất kỳ nơi đâu cần đến họ.

3.8. Sự Quan phòng và ân sủng: từ vụ việc Gerini tới Thánh Tâm (Roma)

Khi cha viết bài tường trình này cho TTN, một nỗ lực cuối cùng được làm để giải quyết cuộc tranh cãi lâu dài về “vụ việc Gerini”, nếu có thể với một thỏa thuận vốn làm lợi không chỉ cho những đối thủ chúng ta mà cả chúng ta nữa. Trong bản tường trình trước cho TTN27, Bề Trên Cả đã qui chiếu tới “vụ việc” này. Mâu thuẫn thậm chí đã trở nên được người ta công bố hơn bắt đầu từ 2007 khi một giao dịch với những đối tác được ký kết vào tháng 6 năm đó, khi can dự như người bảo lãnh Direzione Generale (i.e. the Congregation, we Salesians) chứ không phải Quĩ Tài trợ (Foundation) Gerini, vốn là đối tượng thực sự của vụ tranh cãi đó.[35] Tình hình đó đã thêm xấu đi bởi hệ quả của một “sự phân xử pháp luật” vốn đánh giá sai và lượng giá quá đáng giá trị của tài sản của Quĩ Tài trợ đó, và như vậy đặt Direzione Generale trong tình trạng là phải trả những số lượng cắt cổ mà chúng ta không hề sở hữu và không thể có được. Tất cả điều này cũng biện chính cho việc chúng ta kháng cáo qua những phương thế luật lệ và pháp lý nhằm cố gắng ngăn cản các đối thủ chúng ta không đạt được lợi thế kinh tế bất công và không tỷ lệ này. Từ đó (2007) đã có 12 năm của những kiện tụng căng thẳng và tốn kéo trong phòng xử án.

Trong thời kỳ 6 năm này và chính xác hơn trong tháng Sáu 2017, qua một mệnh lệnh thi hành được thẩm phán ký, những đối thủ của chúng ta trở thành những người sở hữu nhà Tổng quyền được biết đến La Pisana. Họ cố ý làm áp lực tối đa để đạt được tiền như một nghịch giá trị (counter-value) của Pisana. Đáp lại, họ muốn trả lại chủ quyền của nhà mà chúng ta đã sống trong đó.

Cha có thể đảm bảo với TTN và toàn Tu hội rằng đó là một thời khắc rất tế nhị. Tuy nhiên, cha đã xác tín rất rõ ràng và Ban Tổng cố vấn cũng vậy: chúng tôi không làm bất kỳ điều gì vốn sẽ đổ trên các Bề Trên Cả tương lai một món nợ lớn suốt nhiều năm! Ta có thể tìm ra những giải pháp khác, song không phải điều này. Đồng thời, chúng tôi không quên đề xướng mà chúng tôi đã nghe trong GC27 về việc chúng ta ở lại tại Pisana. Trong ánh sáng của tất cả điều này, chúng tôi đã làm một sự phân định thanh thản trong tinh thần đức tin rồi đi đến một quyết định – một quyết định can đảm, cha nghĩ – để rời bỏ nhà Tổng Quyền Pisana. Vì thế, đây không phải là một vấn đề “mất” nó, nhưng là “rời bỏ” (‘để’) nó cho những đối thủ của chúng ta vì giá trị được thiết lập bởi thẩm phán. Bằng cách này, chúng ta làm nhẹ món nợ chúng ta đối với họ – và thực thế đây là điều đã xảy ra. Và chúng tôi không có chỗ nào khác để đi tới. Trong thời hạn ba tháng chúng tôi phải bỏ trống một nhà vốn có nghĩa rất nhiều đối với chúng ta, với 50 năm lịch sử đằng sau nó và những thực tại độc đáo chẳng hạn, văn khố lịch sử Salêdiêng tại trung ương. Nhưng quyết định của chúng tôi vẫn vững chắc và rõ ràng.

Các hội viên của cộng thể nhà Tổng Quyền thật gương sáng trong sự sẵn sàng của họ. Trong ba tháng chúng tôi chuyển đến Thánh Tâm ở Roma, một nhà thuộc về Tỉnh dòng ICC. Các hội viên ở đó đón chào chúng tôi với sự quảng đại lớn lao và sẵn sàng cho chúng tôi tất cả không gian chúng tôi cần.

Chính lúc đó cha thông tin cho toàn Tu hội. Quyết định chúng tôi đã lấy được khắp thế giới đón nhận, cả do những hội viên Salêdiêng lẫn những thành viên thuộc các nhóm Gia đình Salêdiêng.

Chính Giáo hoàng Phanxicô nói cho cha trong một cuộc hội kiến riêng rằng ngài đã cầu nguyện nhiều cho chúng ta và ngài sung sướng với quyết định chúng ta đã làm vì điều nó muốn nói lên và vì chứng tá nó mang lại. Vì những lẽ này, cha tin cha có thể nói rằng chúng ta đã sống một thời gian khi chúng ta thật sự trải nghiệm Thiên Chúa quan phòng cũng như ân sủng của Chúa.

Sau một năm rưỡi chia sẻ cùng những cơ ngơi với Giám tỉnh ICC và Ban cố vấn ngài và với cộng thể Thánh Tâm, chúng tôi đi tới quyết định, sau nhiều đối thoại và hội họp thường xuyên, để làm cho Thánh Tâm, sự hiện diện biểu trưng được chính Don Bosco muốn và đòi ngài rất nhiều mệt nhọc, thành trụ sở trung ương dứt khoát của Bề Trên Cả và Ban Cố vấn ngài và của cộng thể cộng tác với ngài trong những dịch vụ khác nhau cho Tu hội và Gia đình Salêdiêng trong thế giới. Tỉnh dòng ICC tìm được những cơ ngơi thích hợp cho những văn phòng và cộng thể của mình; Trung tâm mục vụ giới trẻ Quốc gia của các Tỉnh dòng Ý (CISI) cũng vậy. Những chi phí làm mới lại những cơ ngơi này để cung cấp cho hai cộng thể mới và những dịch vụ tương ứng của chúng được Bề Trên Cả và Ban cố vấn ngài đảm trách. Hơn nữa, Tỉnh dòng ICC sẽ được bồi hoàn cho giá trị kinh tế của nhà Thánh Tâm (trừ Vương cung Thánh đường).

  1. NHÌN TỚI TƯƠNG LAI VỚI ĐỨC TIN VÀ TIN TƯỞNG

4.1. Một niềm hy vọng được xây trên “Đấng nơi ngài tôi tin tưởng” (2 Tm 1:12)

Trong Tông thư gởi cho tất cả các người được thánh hiến nhân dịp năm dành cho đời sống thánh hiến, Đức Giáo hoàng Phanxicô chỉ tới ba mục tiêu rất biệt loại: nhìn về quá khứ với niềm tri ân, sống hiện tại với đam mê, và ôm ấp tương lai với hy vọng.[36]

Cha tin rằng điều Đức Thánh Cha đề xướng cho tất cả đời tu sĩ thì hẳn nhiên có thể áp dụng cho Tu hội chúng ta và có thể trở thành một chương trình cho TTN28. Chúng ta cũng phải có một quá khứ để chiêm ngắm với niềm biết ơn chân thành, khi chúng ta tạ ơn Thánh Thần vì tặng phẩm lớn lao mà cha Don Bosco dấu yêu chúng ta đã là cho Giáo hội và Gia đình Salêdiêng.

Hẳn nhiên thời gian hiện tại được sống bởi nhiều hội viên rất nhiều đam mê giáo dục và loan báo Tin Mừng chân chính – như Don Bosco đã làm trong thời ngài; với cùng niềm đam mê cứu rỗi giói trẻ vốn sinh động Don Bosco, một nhà loan báo Tin Mừng và Giáo lý viên chân thật, một nhà giáo dục vĩ đại trong đức tin; và với một niềm sùng kính mạnh mẽ và dịu dàng dành cho Đức Nữ Trinh Vô nhiễm Phù hộ các Giáo hữu.

Nhưng tiếng gọi tới sự chân chính trải qua một tương lai được ôm ấp với hy vọng. Chúng ta không dấu diếm những khó khăn mà đời sống thánh hiến đang kinh nghiệm. Đây là những khó khăn mà Giáo hoàng nói đến[37]: ơn gọi suy giảm, các hội viên già nua, đặc biệt trong thế giới phương Tây, những vấn đề kinh tế, thách đố của tính quốc tế và toàn cầu hóa, những cạm bẫy của chủ nghĩa tương đối, sự loại ra ngoài lề xã hội, tính không thích đáng xã hội, v.v.

Hẳn nhiên chúng ta nhận ra chính mình trong thực tại mà Giáo hoàng nói đến; chúng ta chia sẻ những khó khăn này với nhiều nam nữ tu sĩ trong thế giới; tuy nhiên, chính trong những khó khăn ấy mà chúng ta phải thao dợt niềm hy vọng của mình, vốn là hoa quả của đức tin vào Đức Chúa của lịch sử, Đấng đồng hành với chúng ta và tiếp tục nói với chúng ta: “Đừng sợ… vì Ta ở với ngươi”.[38]

Dù lặng trầm, Tu hội chúng ta cũng chịu một sự suy giảm con số trong 6 năm qua. Nhưng niềm hy vọng chúng ta nói đến không dựa trên con số hay công cuộc; chúng ta cũng chịu thua cám dỗ là ẩn náu trong việc kiếm tìm tính hiệu quả, chỉ tin vào sức mạnh của mình. Chúng ta cần một cái nhìn khác. Nó là niềm hy vọng được đặt trên Đấng mà nơi ngài chúng ta tin tưởng và Đấng nâng đỡ chúng ta.[39] Chỉ một kinh nghiệm mạnh mẽ về Thiên Chúa mới có thể nâng đỡ và trao ban một nền tảng vững chắc cho đời tu chúng ta, trở thành nguồn mạch và sứ mệnh chính yếu, và khiến chúng ta có thể làm chứng cho Thiên Chúa bằng đời sống mình. Bằng không, chúng ta liều không thông giao bất kỳ cái gì quí báu và không hiểu trách vụ biệt loại của chúng ta như tu sĩ và Salêdiêng trong thế giới hôm nay.

TTN28 phải có một nhãn quan ngôn sứ, không phải để chỉ tới những cách thức nhờ đó Tu hội có thể “sống còn” trong một ít thập niên, cho bằng để cống hiến sự tươi mát của một đoàn sủng mà chúng ta cố gắng nhập thể, bất chấp những giới hạn chúng ta, khi chúng ta mong muốn là Don Bosco trong thế kỷ 21 và trong tương lai. Theo cá nhân cha, chỉ âu lo về sự “sống còn”, cha xét, đó là một “tội” chống lại đoàn sủng chúng ta. Tu hội chúng ta không được rơi vào cám dỗ này vì bất kỳ lẽ nào. Cha nghĩ chúng ta không khuất phục cám dỗ này, nhưng chúng ta phải luôn cẩn thận và rất tỉnh thức về điều này. Chỉ bằng cách vẫn là “những người tìm kiếm Thiên Chúa” chúng ta mới giải phóng chính mình khỏi sự bất động, khỏi cám dỗ nản chí và ứ đọng, và có thể sống cho sứ mệnh mà chúng ta đã nhận như một tiếng Chúa gọi nơi Don Bosco.

Tương lai của Tu hội chúng ta sẽ phải được thấm đượm bởi niềm hy vọng rằng “sự tối thượng của Thiên Chúa sẽ là viên đá góc tường cho lẽ sống của chúng ta trong Giáo hội và trong thế giới, như đã là thế đối với Don Bosco. Tính tối thượng này sẽ mang lại ý nghĩa cho đời thánh hiến chúng ta, giúp chúng ta tránh nguy cơ là để chính mình quá can dự vào những hoạt động của mình và quên mất rằng chúng ta cốt yếu là “những người tìm kiếm Thiên Chúa” và là chứng nhân cho tình yêu ngài giữa giới trẻ và người nghèo. Vậy chúng ta được gọi để điều hướng lại cõi lòng, tâm trí và tất cả năng lực chúng ta vào cái ‘khởi đầu’ và ‘những cội rễ'”[40] của đoàn sủng chúng ta và ơn gọi của từng người chúng ta. Với sự rõ ràng này chúng ta sẽ chọn lựa dứt khoát điều gì đã là cốt yếu đối với Don Bosco, cụ thể là, dẫn giới trẻ tới gặp Đức Giêsu!

4.2 Thiên Chúa tiếp tục chúc lành chúng ta. Thách đố về nền đào luyện vững chắc, can đảm và trách nhiệm

Chắc chắn chúng ta gợi nhắc rằng trong sáu năm trước một trong những chủ đề mà Bề Trên Cả và Ban cố vấn ngài quan tâm là ơn gọi và đào luyện.[41] Đúng, cha có thể đảm bảo Tu Nghị và toàn Tu hội mà anh em biểu thị (đại diện) rằng cũng trong 6 năm này đào luyện ban đầu và liên tục trong Tu hội là một ưu tiên thực sự. Chúng tôi làm việc rất mãnh liệt và đạt được thành công lớn lao hơn về đào luyện ban đầu trong tất cả những giai đoạn của nó, cấu hình lại những nhà đào luyện của Tu hội, chuẩn bị nhân sự đào luyện và thiết lập những đội ngũ đào luyện tốt có khả năng đồng hành với các giai đoạn khác nhau.

Những khiếm khuyết lớn nhất là ở đào luyện liên tục, một vấn đề chưa được giải quyết cách mãn nguyện bất chấp nhiều sáng kiến được lặp đi lặp lại và những đề xướng đào luyện được tổ chức tốt đẹp.

Suốt ba thời kỳ lục niên vừa qua, Tu hội đã lấy những bước quan trọng về căn tính Salêdiêng chúng ta như những người được thánh hiến và về một cam kết đồng hành tốt hơn trong đào luyện liên tục và ban đầu. Cha nghĩ cha có thể nói rằng trong 6 năm qua công việc quan trọng đã được thực hiện khi đạt được sự điều phối tốt hơn và sự cộng tác hiệu quả giữa những ban ngành khác nhau.

Trong sự tiếp nối chặt chẽ với thời kỳ 6 năm trước, một nỗ lực được thực hiện từ 2014 đến 2020 để cổ xuý một sự hiểu biết tốt hơn về ơn gọi thánh hiến Salêdiêng trong hai hình thức biệt loại. Ta đã đạt được một sự tiến bộ nào đó; tuy nhiên, chúng ta có trách vụ giúp từng hội viên và từng cộng thể sống căn tính chúng ta như những người được thánh hiến với chiều sâu và xác tín sâu xa hơn. TTN28 sẽ có tiếng nói của mình trong vấn đề này, nhưng rất có thể chúng ta sẽ thấy hoàn toàn rõ ràng rằng các Salêdiêng mà giới trẻ ngày nay cần đến phải là những người sống ơn gọi mình như những người được thánh hiến, sư huynh và linh mục, với cảm thức sâu xa về Thiên Chúa, một xác tín mạnh mẽ, một đời trong sáng toàn diện và một niềm vui lớn lao, cả bên trong lẫn bên ngoài.

Mặc dù con số các ứng sinh cho đời Salêdiêng thay đổi đáng kể từ vùng này qua vùng khác, chúng ta, như một Tu hội, coi con số tập sinh bắt đầu đời Salêdiêng mỗi năm là một phúc lành từ Thiên Chúa. Chúa chắc chắn kỳ vọng công cuộc của chúng ta trong mục vụ giới trẻ và đồng hành tiếp tục mang lại nhiều hoa trái. Nhân loại mà nói, cũng có những dấu chỉ khác bảo cho chúng ta về niềm hy vọng và con đường dứt khoát chúng ta sẽ phải theo trong những năm tới:

  • Sự giảm thiểu con số của chúng ta trong 6 năm qua, khi xét những tình trạng bất thường vốn đã được xử lý và giải quyết, đã ít hơn trong quá khứ một cách đáng kể. Trong tháng 12 năm 2013 niên giám Tu hội liệt kê có tất cả 12,371 Salêdiêng và 122 Giám mục. Ngày nay có tất cả 14,184 Salêdiêng.

Sự khác biệt được hiểu tốt đẹp hơn và chiều hướng tích cực được ghi nhận nếu ta xét đến sự kiện rằng trong 5 năm này 583 tình trạng bất thường đã được giải quyết: Chính yếu đây là những hội viên vẫn xuất hiện cách chính thức là các Salêdiêng mặc dù họ đã rời bỏ Tu hội nhiều năm trước rồi. Vì thế, việc rớt xuống trong con số của 5 năm này là khoảng 100 hội viên. “Chính sách ngăn chận” này có thể tiêm vào nhiều hy vọng cho tương lai miễn là chúng ta liên lỷ chăm sóc ơn gọi của các hội viên, trước hết của chính mình và của cộng thể địa phương cũng như tỉnh dòng mà chúng ta thuộc về.

  • Số phần trăm của những kẻ bỏ nửa chừng trong các giai đoạn đào luyện cũng suy giảm chút ít, khi làm giảm thiểu con số những người rời bỏ chúng ta trong 6 năm này.
  • Sự thao dợt việc lắng nghe, được thực thi với sự trợ giúp của một nghiên cứu và bảng câu hỏi được hơn 3000 hội viên trong đào luyện và những người hướng dẫn đào luyện của họ can dự vào, đã soi tỏ một số yếu kém trong đào luyện ban đầu. Sự ý thức này là một sự trợ giúp tiến tới sự tăng trưởng.
  • Như đã có trong 15 năm qua, sự phân định ơn gọi trong mục vụ giới trẻ và trong các nhà tu sinh và tiền tập sẽ giúp đạt được sự bền đỗ lớn lao hơn, cả trong tập viện cũng như trong thời kỳ khấn tạm.
  • Chúng tôi cũng tin rằng những tiến trình thích hợp của phân định và đồng hành trong sự sinh động ơn gọi sẽ dẫn tới sự cải thiện đáng kể trong đào luyện và một sự suy giảm trong hiện tượng mỏng dòn ơn gọi, cách riêng trong một số vùng của Tu hội.
  • Sự chuẩn bị cẩn thận hơn những người hướng dẫn đào luyện biểu thị một cơ hội lớn lao khác; chúng ta phải tiếp tục theo những đường nét được khai triển trong 6 năm này. Ta đã thực hiện một nỗ lực quan trọng nhằm chuẩn bị những nhà hướng dẫn đào luyện và những nhóm đào luyện cho những giai đoạn khác nhau. Một vài quyết định đã được lấy. Tuy nhiên, có những tình trạng trong Tu hội vẫn tỏ lộ sự mỏng dòn đáng kể. Đảm trách việc đào luyện của những người hướng dẫn đào luyện hầu cung cấp cho họ những tài khéo cần thiết cho trọng trách của họ là một hành trình dài và gian khổ. Dù bất kỳ điều gì xảy ra, chúng ta tin tưởng về những hoa quả mà nó sẽ mang đến cho đào luyện.
  • Việc đào luyện của chúng ta không thể là một cái gì trừu tượng. Sứ mệnh của người Salêdiêng cho người trẻ hôm này điều kiện hoá việc đào luyện người Salêdiêng. Phải giúp cho những người Salêdiêng trẻ đạt tới việc khám phá sinh tử rằng sứ mệnh chúng ta ngày nay là một sứ mệnh được chia sẻ với người đời và đôi khi với cả những người được thánh hiến nữa, quả là quan trọng. Từ ban đầu của Tu hội, chúng ta đã được đào luyện trong sự mệnh và bởi sứ mệnh. Kinh nghiệm đã có với Donn Bosco ở Valdocco tiếp tục là một khuôn mẫu cho chúng ta ngày nay.
  • Trong đào luyện Salêdiêng ngày nay, việc lắng nghe và đối thoại, kính trọng và chấp nhận nhịp độ tăng trưởng và trưởng thành của từng cá nhân phải đặc trưng hoá những năm tới. Đào luyện không có nghĩa là “định dạng” (dữ liệu), và “cùng bước đi” phải dẫn tới những tiến trình tăng trưởng và biến đổi chân chính nơi từng người. Sự cam kết như thế đòi hỏi những nhà hướng dẫn đào luyện có một nhãn quan rõ ràng và sự uyển chuyển cần thiết để chấp nhận nó luôn là “một công việc đang tiến tới”. Theo nghĩa này chúng ta nói về những nhà đào luyện vốn có thể sống một “sự xuất hành” liên tục.
  • Niềm hy vọng chúng ta nói đến sẽ được thật sự kiện cường bởi những hoạt động chúng ta sẽ làm và nó mang lại sự tiếp nối chân chính với những giai đoạn đào luyện khác nhau.
  • Cuối cùng, chúng ta phải tăng trưởng trong xác tín rằng đào luyện kéo dài suốt đời và vì lẽ này tất cả các giai đoạn đời sống phải được đồng hành, kể cả giai đoạn của tuổi trưởng thành và cao niên Salêdiêng.

Khoé nhìn mà Tu hội đạt được ngày nay, khi bước theo con đường được lấy trong những thập niên qua, chắc chắn cần được TTN này đào sâu hơn.

4.3. Chúng ta cần anh em [các bạn trẻ] giữa chúng ta: Tiếng kêu của giới trẻ tại TTN28!

Đây là điều chúng ta đọc thấy trong lá thư từ Roma: “cha nhìn, và cha thấy rất ít linh mục và tư giáo hoà trộn với các thiếu niên, và còn ít hơn nữa những người tham gia vào các trò chơi của chúng. Các Bề trên không còn là linh hồn và cõi lòng của giờ giải trí. Phần đa đều đi đi lại lại, nói chuyện với nhau chẳng mảy may chú ý đến điều mà các học sinh đang làm. Số khác nhìn vào giờ giải trí nhưng ít chú ý đến thanh thiếu niên (…). Cha phải kết thúc: anh em biết người già nghèo khổ đã tiêu hao cả đời cho các thiếu niên thân yêu của mình muốn gì nơi anh em không? Không gì khác hơn, khi xem xét mọi sự, chúng ta phải trở về lại những ngày hạnh phúc của nguyện xá thuở xưa: những ngày của yêu thương và tin tưởng Kitô hữu giữa thiếu niên và bề trên; những ngày khi chúng ta chấp nhận và chịu đựng những khó khăn vì yêu mến Chúa Giêsu Kitô; những ngày khi cõi lòng rộng mở với sự ngay thật đơn giản; những ngày của tình yêu và niềm vui chân thật cho mọi người.”[42] 

Các hội viên thân mến, đã bắt đầu TTN28 của chúng ta rồi, cha có thể đảm bảo anh em rằng tiếng nói của người trẻ từ khắp thế giới là một tiếng kêu xin chúng ta ở giữa chúng, với chúng và cho chúng.

Trong tất cả các tỉnh dòng và quốc gia mà chúng ta hiện diện, khi chúng ta hỏi người trẻ xem chúng mong đợi gì từ chúng ta và chúng muốn gì nơi chúng ta, họ đều đồng loạt kêu lên như thế đó.

Hẳn nhiên, suy tư này sẽ chiếm cứ chúng ta trong những ngày sắp tới và có lẽ sẽ là một trong những định hướng lớn của chúng ta khi chúng ta hoạch định cho tương lai. Đó là vì sự sống đoàn sủng của Tu hội trải qua một sự trở về lại với Don Bosco cách chân chính và thường hằng để thay thế, nơi nào cần thiết, sự quản trị bằng sự hiện diện, sự điều hành bằng sự ưu tiên dành cho từng người trẻ, và quyền bính như sức mạnh bằng sự phục vụ, cho đến khi những lời của cha chúng ta trở thành một thực tại cho từng người chúng ta và cho từng ngày: “Trong những điều vốn sinh lợi cho giới trẻ đang gặp nguy hiểm và để cứu các linh hồn về cho Chúa, cha thẳng tiến ngay cả tới độ liều lĩnh.”[43]

Huấn quyền của Tu hội chúng ta đầy những trang và diễn đạt đẹp đẽ vốn nhắc nhớ chúng ta rằng người trẻ là sự ưu tiên của chúng ta; chính chúng ta, các Salêdiêng DB nói điều ấy. Trong TTN28 này chính cùng những người trẻ đang kêu xin chúng ta, đang nài nỉ chúng ta. Từ nhiều đoạn mà cha đã đọc và suy tư trên đó, cha cống hiến một đoạn cho Tu Nghị này. Đây là một ít dòng từ sứ điệp của TTN25 gởi cho giới trẻ, trong đó chúng ta nói với họ:

Được cùng nhau qui tụ ở Roma,

từ tất cả các lục địa,

chúng tôi Salêdiêng DB, viết cho các bạn trẻ, bởi lẽ chính vì các bạn mà chúng tôi sống.

(…)

Chúng tôi muốn sống cho các bạn và với các bạn

trong những tình trạng nghèo khổ,

trong những đau thương của chiến tranh,

trong những đối kháng vốn chia rẽ

và bất kỳ ở đâu sự sống bị đe doạ

và sự phát triển bị dập tắt.

Chúng tôi ở với các bạn

trong kiếm tìm Tình Yêu,

vốn trao ban ý nghĩa tròn đầy cho đời sống và dẫn tới hạnh phúc.

(…)

Chúng tôi muốn canh tân lời cam kết:

các cánh cửa của cõi lòng chúng tôi và các nhà chúng tôi

luôn rộng mở cho các bạn.[44]

Tiếp tục chu toàn những lời hứa này là một đảm bảo cho lòng trung thành đối với Don Bosco, và trong ngài, đối với Chúa.

4.4. Một Tu hội Salêdiêng của thế kỷ 21 với một sự ưu tiên dành cho những người nghèo khổ nhất

Trong TTN27 chúng ta nói: “Chúng tôi muốn là một Tu hội của những người nghèo cho người nghèo. Như DB chúng ta chủ trương rằng đây là cách chúng ta sống Tin Mừng một cách triệt để cũng như sẵn sàng và mau mắn hơn trong việc đáp lại những nhu cầu của giới trẻ, khi tạo ra trong đời sống chúng ta một sự xuất hành chân chính đến với những người thiếu thốn nhất. Các người trẻ di dân, tị nạn, và thất nghiệp thách đố chúng ta là Salêdiêng trong mọi miền thế giới.”[45]

Don Bosco tập trung cả đời trên người trẻ và biết làm thế nào để thích ứng với chúng, với thực tại và môi trường của chúng. Chúng ta cũng sẽ phải tiếp tục khám phá những kho tàng mà từng người trẻ mang trong lòng mình, với cùng tình yêu và cùng sự nhất quyết giáo dục và loan báo Tin Mừng.

Chúng ta vẫn dành mối ưu tiên tuyệt đối cho giới trẻ và giữa chúng, cho những em “nghèo, bị bỏ rơi và gặp nguy hiểm.” Chính Don Bosco thường xuyên dùng lối diễn đạt này ngay từ khoản đầu tiên của HL mà ngài viết. Vì thế, nó là “ưu tiên của mọi ưu tiên: giúp cho những người thiếu thốn nhất”.[46] Và các TTN vừa qua, cách này cách khác, trong bối cảnh này hoặc bối cảnh khác, luôn tập trung chú ý vào sứ mệnh dành cho những người em nghèo nhất và thiếu thốn nhất.

Nỗi sợ là không hoàn toàn trung thành với sự ưu tiên này luôn tồn tại. Cha Ricceri trong TTNĐB20 đã cảnh cáo về nguy hiểm này và trải rộng một lời mời gọi để sửa chữa: “một số những phóng đại trong các công cuộc vốn phát triển trong một cách thức mà không làm chứng rõ ràng cho đoàn sủng Salêdiêng (cho người nghèo) với sự hao mòn (teo lại) sau đó của những đặc tính Salêdiêng tương hợp.”[47]

Trong diễn từ kết thúc TTN27 chính cha nói: “Cha dám yêu cầu rằng với sự can đảm, trưởng thành và cầu nguyện nhiều, chúng ta được sai tới những giới trẻ bị loại bỏ nhất; trong từng Tỉnh dòng chúng ta chọn để lấy một cái nhìn khác vào nơi chúng ta phải ở lại, nơi chúng ta phải đi tới và nơi chúng ta có thể rời bỏ… Những trẻ nghèo thách đố chúng ta bằng những tiếng kêu than đau khổ của chúng.”[48]

Cha tin rằng cha có thể ngay thẳng nói trong 6 năm này Tu hội đã chú ý và tỉnh thức về sự ưu tiên này. Cha đã lặp lại khắp thế giới rằng khi một quyết định hay một chọn lựa mục vụ thuộc bất kỳ loại nào ta phải thực hiện, chúng ta không được xao nhãng sự ưu tiên dành cho thanh thiếu niên và người trẻ đang nghèo khổ nhất. Và cha tin chúng ta đã không trệch đường ấy. Nhưng đồng thời, cha phải nhắc nhớ anh em rằng có một khuynh hướng rất mạnh trong một vài quốc gia và tỉnh dòng, cách riêng trong khung cảnh trường học, để dành chỗ đầu tiên cho những người có thể “trả tiền” và bỏ quên những người nghèo nhất. Đó là một cám dỗ mà dễ dàng được biện chính “cách tiên thiên” bằng nhu cầu phải hỗ trợ các công cuộc chúng ta hay để đảm bảo chúng có thể tồn tại được, và chúng ta không làm hết sức mình để tìm ra những phương thế khác vốn có thể đảm bảo các công cuộc ấy có thể tồn tại mà không bao giờ – cha nói không bao giờ – phải biến các sự hiện diện của chúng ta thành những tổ chức dành cho những người ưu tú hay những không gian chỉ dành cho những người có nhiều khả thể. Thực thế, giữa các hội viên và trong các tỉnh có một nguy cơ thật sự là chỉ nghĩ đến hoặc trên hết nghĩ đến sự hưng thịnh và an nhàn của chính mình, và không sẵn sàng đi tới những khu vực nghèo khổ nhất của Tỉnh dòng và rời bỏ những thành phố vì những sự hiện diện xa xôi hơn và khiêm tốn hơn. Thật sự đặc biệt âu lo rằng trong một số tình trạng một số Salêdiêng trẻ không có trong tâm hồn mình nỗi ao ước trao ban triệt để và đầu hàng chính mình, bất kể phải trả giá hay cố gắng nào.

Khi cha viết suy tư này, thâm tín về sự hiện hữu của quá nhiều lựa chọn sẵn đó vì người nghèo trong Tu hội chúng ta và cũng về mối nguy hiểm lớn là bị tắc nghẽn giữa đường, cha ngước nhìn lên Mẹ Têrêsa Calcuta (nay là một vị thánh) và ngẫm nghĩ về điều ngài khuyến khích khi nói cho chúng ta vào 17 tháng Tư 1984 tại TTN22: “Anh em đừng để ai hay bất kỳ điều gì chia tách anh em khỏi Chúa Kitô bằng cách lấy anh em xa khỏi người nghèo.”[49]

Trong TTN28 này, khi nhìn đến tương lai với niềm hy vọng phải có nghĩa là, ngay cả trong trường hợp này, quay về lại với Don Bosco và đề xướng cho Tu hội những thách đố đời sống chân chính vốn sẽ làm đầy cõi lòng của mọi Salêdiêng để nên như Don Bosco hôm nay và cho giới trẻ ngày nay.

4.5. Trong một Tu hội thực sự tin vào việc chia sẻ sứ mệnh với giáo dân

Làm một khảo cứu nhanh gọn về những TTN chúng ta, từ TTNĐB20 đến TTN27, cha tò mò tìm kiếm tất cả những đoạn vốn trực tiếp, cụ thể và sâu rộng nhắc đến giáo dân, việc đào luyện họ và cam kết của họ, và sự cộng tác và chia sẻ của họ vào sứ mệnh với chúng ta. Tất cả những diễn đạt này xuất hiện trong 82 đoạn; hơn nữa, toàn TTN24 dành cho đề tài “Người Salêdiêng và người đời: hiệp thông và chia sẻ tinh thần và sứ mệnh của DB”.

Các hội viên thân mến, dữ liệu này nói cho chúng ta về một sự nhạy cảm trong suy tư chúng ta và trong huấn quyền chúng ta vốn đi lại cả một đường dài. Trong một vài khu vực của Tu hội bước tiến tốt đẹp đã được thực hiện. Nhưng chung chung,  thực tại đó ngày nay là một chứng từ cho sự kiện rằng ôm ấp con đường này, theo nó và xen nhập nó vào đời sống của các Tỉnh dòng cũng như các hội viên thì không hiển nhiên và dễ dàng. Vấn đề này cũng sẽ phải được TTN28 bàn thảo.

DB, luôn luôn là một người cho những tương giao nhân bản, đối thoại và tình bạn, thường hằng tìm kiếm các cộng sự viên. Năm 1972, TTNDB20 chúng ta đã nói rằng “chúng ta cũng phải quảng đại ‘rộng mở’ trong việc chia sẻ trách nhiệm trong công việc mục vụ chúng ta với giáo dân; họ có “một vai trò riêng và không thể thay thế trong sứ mệnh của GH’.[50] Trong cùng TTN đó, 47 năm trước, ta đã nhìn rằng giáo dân ‘phải là một trong những người đảm nhận nhiều sự quản trị mà cho đến nay được chúng ta thực hiện”;[51] chúng ta được mời gọi để “tìm sự cộng tác của giáo dân trong lãnh vực quản trị công cuộc, cuối cùng lựa chọn những đại biểu giáo dân vào hội đồng quản trị’.[52] Suy tư ngày này làm chúng ta hiểu rằng chia sẻ sứ mệnh thì vượt hơn nhiều việc uỷ nhiệm những chức năng quản trị. Về điều này không chút hoài nghi gì cả; nhưng thường xảy ra rằng một số hội viên biểu lộ chống cưỡng hơn, chỉ khi bàn đến việc trao những chức năng quản trị cho giáo dân. Tuy nhiên, chính trong lãnh vực này mà chúng ta được mời để thực thi những trách vụ và chương trình “trong sự tham khảo với giáo dân vốn chia sẻ trách nhiệm của chúng ta trong công việc mục vụ.”[53]

Tường trình của Bề Trên Cả cho TTN21 cống hiến một lời minh xác quan trọng về điều này. Nó nói: “Chúng ta phải nhận biết rằng, cách riêng ngày nay không chỉ hoặc tiên vàn vì nhất thiết, nhưng vì những lý lẽ hiển nhiên của giáo hội học và sư phạm, chúng ta cần giáo dân vốn có thể là những cộng sự viên hiểu biết và có khả năng; họ xen nhập cách hiệu quả với chúng ta vào công việc giáo dục, mục vụ và loan báo Tin Mừng.”[54] Các hội viên, đây là con đường chúng ta đi vào rồi. Trong những năm tới Tu hội chúng ta phải lấy những bước quyết liệt theo hướng này. Nhưng tất cả điều này có áp dụng vào những nơi có nhiều ơn gọi không? Chắc chắn có. Trên hết, vì một bước như thế sẽ làm chúng ta tự do nhiều hơn nữa về thể chế và trên bình diện cá nhân sẽ cho chúng ta nhiều cơ hội để tập trung nhiều năng lực trực tiếp vào sứ mệnh loan báo Tin Mừng, huấn giáo và mục vụ của mình.

Cha viết điều này, khi biết rõ rằng đây là một vấn đề ‘nhạy cảm và kông thoải mái’. Nhạy cảm và không thoải mái như mọi sự vốn đã được nói trước kia về vấn đề giáo sĩ trị – bởi chính cha, và vào thời ngài, bởi cha Pascual Chavez. Dù sao chăng nữa, việc một vài vấn đề không mang tính quần chúng không thể lấy đi sự can đảm để nêu bật chúng. Nó là một bổn phận đi liền với sự phục vụ của cha. Cha mời gọi toàn hội nghị can đảm về điểm này.

“Giáo dân có quyền đối với vai trò cộng tác và chia sẻ trách nhiệm; và vì thế họ phải được chuẩn bị”.[55] TTN21 viết điều này. Cha đã chỉ ra một số lý lẽ tại sao Tu hội rất rõ về điểm này: “khi các cộng sự viên giáo dân là những Kitô hữu thâm tín, sự hiện diện của họ cung cấp cho giới trẻ chúng ta một hàng ngũ khuôn mẫu về đời sống Kitô hữu; họ cống hiến cho các Salêdiêng những cơ hội tốt đẹp hơn để tiêu hao chính mình trong lãnh vực sinh động hoá biệt loại của mình; và họ cung cấp cơ hội để đối thoại sâu rộng hơn và cho phép một cuộc đối thoại rộng rãi và hợp thời hơn khi đối diện với những vấn đề của gia đình và nghề nghiệp”.[56]

Sự chọn lựa nằm trong tay chúng ta. Sự sống tỏ cho chúng ta rằng nó là con đường đúng. Tất cả điều cần thiết là vượt thắng sự chống cưỡng của mình vì một sứ mệnh; sứ mệnh sẽ luôn ở trong một vị trí để thiết lập những cách thức mới, tích cực và lây lan để thực thi việc chia sẻ sứ mệnh giữa Salêdiêng và giáo dân. Cha thích nhấn mạnh rằng đào luyện ban đầu của những thế hệ Salêdiêng mới phải trực tiếp đối diện với thực tại này.

4.6. Với một khả năng can thiệp và đồng hành với những thay đổi mới trong khung hệ thông giao (truyền thông)

Chúng ta đang ở trên ngưỡng cửa của một kỷ nguyên hoàn toàn mới trong lãnh vực truyền thông xã hội.[57] Năm 1971 Chỉ thị Mục vụ Communio và Progressio đã nêu bật sự hiện hữu của thực tại hoàn toàn mới này. Ngày nay, chiêm ngắm thế giới trong đó chúng ta sống và lãnh vực truyền thông xã hội chúng ta thấy mình đúng ở trong tình trạng mà 48 năm trước chỉ mới được phác hoạ sơ sài.

Nơi nơi chúng ta đều nghe nói rằng chúng ta kinh nghiệm một sự thay đổi “khung hệ”. Trong một thời gian ngắn, kỹ thuật, thói quen và não trạng con người thay đổi. Trong thập niên kế tiếp, thập niên 2020, những thay đổi lớn lao được kỳ vọng trên bình diện toàn cầu. Nhiều quốc gia đã bị ngập chìm trong thế giới của “trí thông minh nhân tạo”, sự thông giao với kỹ thuật 5G, “Dữ liệu Vĩ đại”, kỹ thuật sinh học, việc sử dụng kỹ thuật nano, v.v.

Rõ ràng chúng ta ở trong một thời đại của những thay đổi sâu xa vốn ảnh hưởng không chỉ cách chúng ta suy nghĩ và hành động mà cả đời tu chúng ta và cách chúng ta diễn đạt sự thánh hiến và đức tin chúng ta. Như những nhà giáo dục, mọi ngày chúng ta quan sát các thiếu niên và người trẻ nhanh chóng thay đổi thói quen, cách chúng nhìn, suy tư và hiểu biết thế giới, những tương giao cá nhân và nhóm của chúng và những giá trị cơ bản về hiện hữu, thế giới và Thiên Chúa (mà chúng tỏ ra trong những biểu lộ đức tin hay sự dửng dưng của chúng).

Đang xảy ra trong thế giới một sự phát triển đa phương tiện và sự gia tăng diễn đàn truyền thông trực tuyến mà nội dung của chúng được khai sinh bởi chính người sử dụng. Phạm trù này bao gồm blogs, diễn đàn trực tuyến (online), và những đa phương tiện trực tuyến khác nhau vốn cho phép một người sáng tạo và chia sẻ nhiều nội dung. Giữa những diễn đàn quan trọng nhất là mạng lưới xã hội chính yếu (hiện nay, Facebook, Twitter, Instagram… và ngày mai, những thứ khác) vốn được định nghĩa là “diễn đàn thông giao kỹ thuật số toàn cầu vốn mang một số lớn người sử dụng lại với nhau. Những mạng lưới xã hội này và kênh “internet” đặc ưu của chúng đã trở thành những dụng cụ cơ bản của việc sử dụng “mãnh liệt” và “cốt yếu” cho sự xã hội hoá của tuổi trẻ, nêu lên song luận về điều gì là ảo, điều gì là thật, và làm thế nào điều ảo lại luôn luôn là “thật” bởi vì nó là một phần của đời sống.

Những nơi chốn giới trẻ sống không chỉ là những không gian thể lý, nhưng là “những nơi chốn kỹ thuật số” vốn được biến đổi thành những nơi chốn thực sự bởi vì giới trẻ và nhiều người lớn cũng gặp nhau ở đó vào bất kỳ thời khắc và vào bất kỳ lúc nào. Ở đó họ làm cho tiếng nói và sự hiện diện của họ được nghe. Vũ trụ ảo này tăng trưởng theo hàm mũ trong sự trao đổi thông giao vốn giảm thiểu những khoảng cách giữa những nhóm lớn (macro-group) gồm “những bạn bè vô danh” vốn kết nối và thông giao với nhau.

Người ta có thể có một cái nhìn về thế giới mới của những tương giao với một tiến trình đơn giản gọi là “tương tác” (interaction). Một phản hồi liên tục được chủ trương giữa những người trẻ vốn sống ở vũ trụ của ba “www” (ba v kép). Và trong sự tương tác này vô vàn tin nhắn, hình ảnh và videos được trao đổi với nhau với những nội dung của chúng, khi làm cho con số của người trẻ ngập chìm vào trong thế giới của những màn hình gia tăng thành điều có thể là tương lai của ngày nay: bị thu hút vào “điện thoại thông mình” tân thời của họ, họ trở thành “nhà tiêu dùng” (prosumer), nghĩa là, cùng một lúc, là những người tiêu thụ và sản xuất thông tin, và ngay cả kiến thức nữa.

Thực tại này cần phải được miêu tả hơn và khám phá sâu xa hơn. Đối với chúng ta, những nhà giáo dục giới trẻ, hơn cả hiển nhiên, khoé nhìn và thực hành giáo dục của chúng ta không thể là một thái độ khải huyền, tiêu cực và dửng dưng đối với thực tại mà chúng ta vừa miêu tả. Trái lại, về phía chúng ta, phải có một thái độ “thông minh” và “tích cực”, một thái độ vốn hàm ẩn một sự sâu xa và một hiểu biết toàn diện về những giới hạn và những khả thể được những phương tiện này cống hiến. Khi chúng ta cam kết mình để đồng hành với giới trẻ, chúng ta sẽ phải cố gắng thủ đắc một kiến thức về những ngôn ngữ mới, làm chúng thành của mình để hiểu chúng và đối thoại với chúng trong một cách thức phê phán.

Qui chiếu tới in ấn sách báo, phương tiện truyền thông của thời ngài, Don Bosco viết: “Các con đừng xao nhãng khía cạnh rất quan trọng này của sứ mệnh chúng ta.”[58] Và trong thư luân lưu của ngài đề ngày 19 tháng 3 1885, ngài nói: “In ấn báo chí là một trong những sự nghiệp chính mà Chúa Quan Phòng trao cho cha. Cha không ngần ngại khi gọi phương thế này là thần linh, vì chính Thiên Chúa dùng nó để tái sinh con người.”[59] Ngài đi xa hơn khi nói cho Giáo hoàng Piô XI tương lai: “Don Bosco luôn muốn là một người đi đầu trong những việc như thế.”[60]

à cha tự hỏi xem như nhà giáo dục giới trẻ, Tu hội và Salêdiêng chúng ta hôm nay và ngày mai sẽ có thể chuẩn bị mình hơn và hơn nữa cho bối cảnh kỹ thuật số mới mẻ này trong đó giới trẻ chúng ta sống hay không

à cha tự hỏi xem như những nhà giáo dục giới trẻ chúng ta có hiểu, suy tư, tham gia vào và đào sâu sự hiểu biết của ta về thực tại là mạng lưới xã hội tới độ trở thành uy tín trong việc tương tác với giới trẻ chúng ta gặp hay không.

à Và, vẫn còn một thách đố cho chúng ta những nhà giáo dục. Chúng ta hãy tự hỏi xem những chương trình giáo dục chính thức mà chúng ta cống hiến trong các trường, giáo xứ, nguyện xá và trong IUS sẽ “nhạy cảm” và “có thể thẩm thấu” đủ để cùng tần số với giới trẻ và “thế giới kỹ thuật số” của chúng hay không. Đây là một chiều kích có tầm quan trọng đến nỗi chúng ta không thể xao nhãng nó, như thể nó không phải là cái gì sinh tử và cơ bản trong việc loan báo Tin Mừng và giáo dục người trẻ. Và bởi vì nó quá sinh tử và cơ bản, ta phải dành một sự xem xét nghiêm chỉnh trong việc đào luyện những thế hệ Salêdiêng mới; nó là một lãnh vực trong đó, cũng như chúng ta, họ, “những cư dân kỹ thuật số”, được gọi để là những nhà giáo dục và loan báo Tin Mừng của giới trẻ trong Tu hội chúng ta ở đó chúng ta giáo dục và loan báo Tin Mừng “đặc biệt bằng các phương tiện truyền thông xã hội.”[61]

KẾT LUẬN: XUA TRỪ CÁM DỖ NẢN LÒNG (THẤT ĐẢM) VÀ XÁC QUYẾT NIỀM HY VỌNG ĐẾN TỪ CHÚA

Cha kết thúc bài tường trình này. Cha đã chuẩn bị nó với niềm đam mê và xác tín và cha có nhiều điều hơn để chia sẻ. Có lẽ chúng ta có thể làm điều ấy khi đối thoại trong ít ngày sắp tới lúc cha trả lời những câu hỏi của anh em.

Cha muốn kết thúc bằng cách làm cho những lời được cha Egidio Vigano nói trong diễn từ kết thúc TTN23 thành của mình. Ngài nói: “đối với cha không cần lặp lại ở đây điều mà đã được TTN nói với thẩm quyền. Tất cả điều cha muốn làm ấy là xua trừ bất kỳ cám dỗ thất đảm nào: văn kiện thì đầy những điều đẹp, nhưng về nó, ta có thể làm gì trong nhà này và với những hội viên này? Dĩ nhiên, sẽ có những khó khăn thực tiễn phải đối diện.

Chúng ta phải phản ứng, nhưng bắt đầu từ chính mình; chúng ta phải thâm tín rằng mọi nhà đều có nhiều khả thể hơn chúng ta tưởng; và trên hết chúng ta phải gia tăng niềm tin tưởng của mình vào Thần khí hiện diện và tác động thật sự, vào năng lực của sự phục sinh được Đức Kitô ban cho trong các bí tích, vào sự trợ giúp từ mẫu thường hằng của Đức Maria, vào sự chuyển cầu của Don Bosco và các thánh của chúng ta cùng với toàn thể triều thần trên trời.”[62]

Cuối cùng, sự khác biệt giữa lạc quan và hy vọng nằm biệt loại trong đức tin. Có những lúc chúng ta có thể lạc quan nếu các dữ liệu chúng ta xử lý mang đến cho chúng ta những kết quả thuận lợi, nhưng đây là một thái độ mỏng dòn và tạm bợ. Ngày qua ngày chúng ta phải bắt đầu cuộc hành trình, không phải với niềm lạc quan cho bằng với hy vọng, phải, một niềm hy vọng có gốc rễ của mình trong đức tin và trong sự hiện diện của Thần khí. Một niềm hy vọng biết rằng có một Người Mẹ, sự Trợ giúp của các Kitô hữu, có nghĩa là gì; ngài tiếp tục làm mọi sự khi ngài đồng hành với gia đình của Don Bosco; biết rằng có một người cha, DB, có nghĩa là gì; ngài là đấng tiếp tục dẫn dắt công cuộc này vốn thậm chí không phải của ngài nhưng là hoa quả của Thần khi, mặc dù qua những trung gian nhân loại nghèo nàn. Ước gì cùng một Thánh Thần này hướng dẫn chúng ta trong trách vụ này của Tu Nghị mà toàn Tu hội trao phó cho chúng ta.

Ôm chào anh em từ người anh của anh em,

Fr. Ángel Fernández Artime SDB

Rector Major

[1] Cf. GC27, 3.

[2] GC27, 32.

[3] GC27, 28.

[4] VC, 93.

[5] GC27, p. 120.

[6] HL 25.

[7] EG, 92.

[8] GC27, 42.

[9] GC27, 52.

[10] POPE FRANCIS, Come Don Bosco, con i giovani e per i giovani. Lettera di Papa Francesco al Rettor Maggiore dei Salesiani, Rome 2015, p. 9.

[11] JOHN BOSCO, Il giovane provveduto per la pratica de’ suoi doveri degli esercizi di cristiana pieta’, in ISS, Fonti Salesiane. I. Don Bosco e la sua opera, LAS, Rome 2014, p. 614.

[12] Các số qui chiếu tới sự đồng hành trong GC27 là: 1, 18, 27, 38, 59, 74.2, 75.1.

[13] ChV, 299.

[14] Cf. M.LASARTE-D.MEDEIROS (Coords.), Amazonia Salesiana. El Sinodo nos interpela, Elle Di Ci, Leumann (Turin) 2019, p. 19.

[15] Ad gentes, 40.

[16] Cf. BM II, pp. 160-161.

[17] E. CERIA, Annali, II-IV passim; ASC, Indexes, dưới từ ngữ, Missio.

[18] Cf. GC27, 19.

[19] GC20, 151.

[20] BM XVI, p. 245.

[21] GC26, 55.

[22] HL 4.

[23] GC27, Relazione del Rettor Maggiore al Capitolo, Rome 2014, p. 331.

[24] ASC 93 (1939), p. 180.

[25] GC24, 252.

[26] HL 37.

[27] GC27, Address of the Rector Major at the closing of the GC27, p. 127.

[28] BM VI, p. 181.

[29] BM XVIII, p. 216.

[30] HL 24.

[31] A. MONTAN, Il religioso presbitero nella Chiesa oggi: attualita’, contenuti, prospettiva di un qualificato seminario della CISM, in CISM, Il religioso presbitero nella Chiesa oggi. Atti del Seminario di Studio (Rome, 31 March 2005), ed. A. Montan, Il Calamo, Rome 2005, 7-17, 7.

[32] CIVCSVA, Economy at the Service of the Charism and Mission. Guidelines, LEV, Vatican City 2018, n. 41.

[33] Ibid.

[34] SGC20, 726.

[35] Cf. Relazione del Rettor Maggiore al GC27, Rome 2014, p. 334.

[36] Cf. POPE FRANCIS, Apostolic Letter to all Consecrated People on the occasion of the Year of Consecrated Life, 2014, 1-3.

[37] Cf. o.c., 15-16.

[38] Gr 1,8.

[39] Cf. 2 Tm 1,12.

[40] GC27, 32.

[41] 1 Cf. Relazione del Rettor Maggiore, o.c., p. 328.

[42] J. BOSCO, Lettera da Roma alla comunita’ salesiana dell’Oratorio di Torino-Valdocco, in ISS, Fonti salesiane. I. Don Bosco e la sua opera, LAS Rome 2014, pp. 446-447, 451.

[43] HL 19 và BM XIV, p. 536.

[44] GC25, 139.

[45] GC27, 55.

[46] SGC20, 48.

[47] SGC20, 181.

[48] GC27, p. 126.

[49] GC22, 110.

[50] SGC20, 428.

[51] SGC20. 393.

[52] SGC20, 620.

[53] SGC20, 439.

[54] GC21, 66.

[55] GC21, 76.

[56] GC21, 77.

[57] Cf. Communio et Progressio 181, 187, được trích dẫn SGC20, 442.

[58] Epistolario IV, p. 321.

[59] Epistolario IV, pp. 318-319.

[60] BM XIX, p. 298.

[61] HL 6.

[62] GC23, 352.

Visited 4 times, 1 visit(s) today