Vị trí & Lịch sử.
Đồi Bát Phúc là một ngọn đồi thấp cách địa danh Tabgha không bao xa. Ngọn đồi này cao hơn biển hồ Ga-li-lê 175 mét, nhưng vẫn còn thấp hơn mực nước biển của Địa Trung Hải 35 mét.
Nếu Tabgha là nơi mà Đức Giê-su đã làm phép lạ hóa Bánh và Cá ra nhiều cho 5.000 người ăn no nê, thì Đồi Bát Phúc là nơi Đức Giêsu nói với các môn đệ và dân chúng một bài giảng nổi tiếng mà người ta quen gọi là “Bài Giảng Trên Núi” hay “Tám Mối Phúc Thật” (Mt 5,1-12; Lc 6,20-23). Bài giảng gồm 9 câu nói về các mối phúc, mỗi câu đều bắt đầu với những lời: “Phúc cho những ai…”, vì thế người gọi nơi đây là Đồi Bát Phúc.
Xa xa dưới chân đồi là tàn tích của một ngôi nhà nguyện nhỏ được xây dựng từ thế kỷ thứ 4 vào thời Byzantine. Ngôi nhà nguyện này được sử dụng cho đến thế kỷ thứ 7. Còn trên đỉnh đồi hiện nay, các nữ tu dòng Phan-xi-cô đã cho xây dựng một ngôi nhà thờ rất đẹp vào năm 1938. Ngôi nhà thờ mang tên “Nhà Thờ Bát Phúc” để tưởng niệm biến cố Đức Giê-su đã giảng “Bài Giảng Trên Núi” tại nơi này. Ngôi nhà thờ được thiết kế độc đáo và ấn tượng theo hình bát giác do kiến trúc sư nổi tiếng là An-tôn Barluzzi, và với sự tài trợ một phần bởi nhà độc tài phát-xít Benito Mussolini. Đứng từ khu vực hành lang của ngôi nhà thờ mới hiện nay trên đỉnh đồi, người ta có thể thưởng thức cảnh Biển Hồ Ga-li-lê và toàn khu vực chung quanh.
Nhà Thờ Bát Phúc.
Ngôi Nhà thờ tám cạnh với hành lang bao quanh gợi nhắc cho khách hành hương về Tám Mối Phúc mà Đức Giê-su đã giảng dạy. Mỗi mối phúc được ghi bằng tiếng La-tinh ở cửa sổ bên trên của mỗi cạnh nhà thờ. Ánh sáng và độ thông thoáng của nhà thờ biểu trưng cho tám mối phúc.
Bàn thờ chính của nhà thờ được trang trí với một khung vòm bên trên. Trên đó, người ta ghi 7 nhân đức (công bình, bác ái, khôn ngoan, tin tưởng, mạnh mẽ, hy vọng và tiết độ) được trang trí với những nền hoa văn mosaic.
Ngoài ra, trong khu vườn, người ta còn dựng lên 3 bàn thờ để cho các nhóm hành hương tiện sử dụng trong việc thờ phượng.
Ở lối vào nhà thờ, người ta đặt trong những khung kính các bộ lễ phục được các vị Giáo Hoàng trao tặng khi đến kính viếng nơi đây;
- Năm 1964: Đức Thánh Cha Phao-lô VI
- Năm 2000: Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II