THÁNH GIOAN BOSCO

SINH NGÀY 16/08/1815 – 31/01/1888

“DA MIHI ANIMAS, CETERA TOLLE”

Lịch sử

Năm 1842, một tu sĩ trẻ người Ý là Gioan Bosco (tiếng Ý: Giovanni Bosco) đã mở một trường học ban đêm dành cho trẻ em trai ở Valdocco (nay thuộc TorinoÝ). Những năm tiếp theo, ông mở thêm vài trường học khác tương tự để thu nhận các trẻ em cơ nhỡ. Đến năm 1857, ông đã thu hút được nhiều người cùng chí hướng và ra một bản quy tắc hoạt động mà nay đã trở thành Hiến luật của Hội dòng Thánh Phanxicô Đệ Salê.

Trên cơ sở các hoạt động đó, vào năm 1852, Gioan Bosco đã thành lập tu hội Salesian. Đến năm 1858, tu hội được Tòa Thánh phê chuẩn và chính thức được công bố vào ngày 18 tháng 12 năm 1859 tại Torino (Ý) với danh hiệu là Hội Đạo đức Thánh Phanxicô Đệ Salê gồm 17 thành viên (01 linh mục, 15 tư giáo và một sinh viên, trong đó có Don Bosco, (lúc bấy giờ đã 44 tuổi). Thành viên Sư huynh đầu tiên gia nhập tu hội vào ngày 22 tháng 2 năm 1860. Ngày 22 tháng 7 năm 1864Tòa Thánh ban sắc Lệnh Decretum Laudis chấp thuận cho tu hội hoạt động và ngày 1 tháng 3 năm 1869 thì chính thức công nhận tu hội Salêdiêng – Don Bosco là tu hội Công giáo. Đến ngày 3 tháng 4 năm 1873Giáo hoàng Piô IX phê chuẩn Hiến luật của tu hội.

Cơ sở đầu tiên của tu hội nước Ý được thành lập ngày 9 tháng 11 năm 1875 tại thành phố Nice, nước Pháp. Ngày 11 tháng 11 năm 1875, cuộc xuất hành truyền giáo đầu tiên lên đường sang Argentina.

Triết lý giáo dục của Dòng Salêdiêng Don Bosco có thể được cô đọng vào ba từ: lý trí, tôn giáo và lòng thương mến. Nguyên tắc cơ bản của hệ thống giáo dục này chính là hiểu biết và yêu thương giới trẻ. Tháng 3 năm 1877, Don Bosco xuất bản khảo luận về Hệ thống Giáo dục Dự phòng của ông. Tháng 8 năm 1877, xuất bản “Tập San Salêdiêng” đầu tiên.

Sau khi người sáng lập Don Bosco qua đời năm 1888, hoạt động của tu hội vẫn tiếp tục phát triển. Năm 1911, các cơ sở tu hội Salêdiêng đã được thành lập trên khắp thế giới, bao gồm ColombiaTrung QuốcẤn ĐộNam PhiTunisiaVenezuela và Hoa Kỳ. Cuối năm 2008, tu hội ước tính có hơn 16.092 hội viên tại 1.859 nhà kể cả các Giám mục và tập sinh đang phục vụ trên 130 quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Huy hiệu truyền thống

Huy hiệu của tu hội được giáo sư Boas thiết kế, đã ra mắt lần đầu tiên trong một lá thư luân lưu của Don Bosco đề ngày 8 tháng 12 năm 1885 mang biểu tượng của sự nhân đức thần học (một ngôi sao rạng rỡ tượng trưng niềm tin, một mỏ neo tượng trưng cho hy vọng và một trái tim rực lửa tượng trưng cho tổ chức từ thiện); hình ảnh của Thánh Francis de Sales (nhắc nhớ đến Đấng Bảo trợ của Tu hội) và một khu rừng nhỏ ở phần dưới (ám chỉ đến Đấng sáng lập) với các ngọn núi cao biểu thị cho những cao độ của sự toàn hóa mà các hội viên đang vươn tới; nhành cọ và nhành nguyệt quế đan xen ở hai bên biểu trưng cho phần thưởng xứng đáng cho một đời sống đạo hạnh và hy sinh. Phía dưới là châm ngôn của hội dòng bằng tiếng Latin diễn tả lý tưởng của người Sa-lê-diêng.

Logo mới

Biểu tượng của tu hội, được tạo thành từ hai hình ảnh chồng lên nhau: Một phông nền cách điệu hình chữ “S” (Salêdiêng) mang sắc màu trắng được hình thành trong một hình cầu giống như một thế giới được đánh dấu bằng đường (hành trình) và còn lại hai phần cắt giữa những cánh đồng hay ngọn đồi.

Hình ảnh thứ hai là các trung tâm của toàn thế giới che lấp đường chữ “S”. Hình một mũi tên màu đỏ chỉ lên chốn nghỉ ngơi, trên ba chân màu đỏ vuông góc với đầu mũi tên, là ba vòng tròn màu đỏ khép kín trở thành một hình ảnh cách điệu của ba người: người đầu tiên ở vị trí chính giữa cao hơn so với hai người bên cạnh là: nhân vật trung tâm của ba người và hai người khác bên cạnh, nó xuất hiện như thể là được chấp nhận bởi nhân vật trung tâm. Ba hình cách điệu với các mũi tên chỉ lên trên cũng có thể được xem như là một ngôi nhà ở đơn giản với một mái dốc (mở cánh tay cách điệu tròn của nhân vật trung tâm) và với ba trụ cột của ngôi nhà (cơ quan của ba người).

Logo hàm chứa ý nghĩa: Thánh Gioan Bosco với vòng tay rộng mở, được cô đọng vào ba từ: Lý trí, Tôn giáo và Lòng thương mến.

Nó được thiết kế với chủ đề Trung tâm Don Bosco và Salêdiêng đồng hành cùng giới trẻ thông qua thế giới.

Quá trình phát triển tại Việt Nam

 
TỈNH DÒNG SALÊDIÊNG DON BOSCO VIỆT NAM

 

 

 

 

 

 

 

 

Vào năm 1936, Giám mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá TòngGiám mục Giáo phận Phát Diệm, đã đề nghị Linh mục Carlo Braga, Giám tỉnh Tỉnh Dòng Salêdiêng Trung Hoa, gửi các tu sĩ Salêdiêng đến điều hành Tiểu chủng viện, dạy học và điều hành trường dạy nghề. Tuy nhiên, việc này đã không được thực hiện. Thời gian sau đó, Giám mục Hồ Ngọc Cẩn đã đến Trung ương Dòng Salêdiêng Don Bosco tại Torino và đề nghị Bề trên Cả của dòng là Philip Rinaldi gửi các tu sĩ Salêdiêng đến Việt Nam. Tuy nhiên đây chỉ là những hoạt động đơn lẻ của dòng tại Việt Nam.

Mãi đến năm 1940, một tu sĩ dòng Salêdiêng người Pháp, linh mục Phanxicô Dupont, vì biết tiếng Nhật, đã được gửi đến Việt Nam để làm thông dịch viên và làm Tuyên úy cho các binh sĩ Nhật. Tuy nhiên, chỉ một năm sau, do có sự can thiệp của Tòa Khâm sứ, ông được xuất ngũ. Là một nhà truyền giáo nhiệt thành, ông tham gia nhiều hoạt động mục vụ tông đồ từ Bắc chí Nam, từ Hà Nội đến Sài Gòn, làm Tuyên úy Sinh viên Công giáo, Tổng linh hướng các cấp lãnh đạo của Tổ chức Hướng đạo. Cuối năm 1941, ông cộng tác điều hành một cô nhi viện ở Hà Nội, nhờ có sự hỗ trợ của một tu sĩ trẻ dòng Salêdiêng, Linh mục Raimond Petit, Linh mục Dupont đã lập một trường huấn nghệ cho học sinh và dạy Latin. Công việc trở nên khó khăn sau cái chết của linh mục Dupont, nên vào năm 1947, Linh mục Raimond Petit đã đưa khoảng trẻ 30 em về Pháp để chuyển vào các nhà Salêdiêng ở Nice và Marseille hoặc gửi vào các gia đình ở Marseille, chấm dứt những hoạt động đầu tiên của hội dòng Salêdiêng tại Việt Nam.

Vào năm 1952, Tòa Thánh phong một tu sĩ dòng Thừa sai (MEP) là Paul Léon Seitz làm Giám mục hiệu tòa Catula và bổ nhiệm ông làm Đại diện Tông Tòa Giáo phận Kon Tum. Trước khi nhậm nhiệm sở mới, Giám mục Paul Seitz Kim đã đề nghị Hội dòng Salêdiêng tiếp nhận Gia đình Têrêxa, một tổ chức xã hội Công giáo chuyên tiếp nhận các thanh thiếu niên nghèo, vô gia cư và thất lạc gia đình, do chính ông thành lập. Đề nghị này được Hội dòng chấp thuận và ngay trong năm đó, Giám tỉnh Tỉnh Dòng Trung Hoa Hồng Kông đã gửi Linh mục Antôn Giacomino (người Brasil) và Linh mục Andrej Majcen Quang (người Slovenia) qua Việt Nam. Lúc đầu, nhà dòng lập chi nhánh Dòng Salêdiêng Don Bosco tại giáo xứ Thái HàHoàng LongHà Nội.

Năm 1954, các tu sĩ cùng các học sinh của Dòng Salêdiêng Don Bosco đều di cư vào miền Nam Việt Nam. Do không được Giám mục Sài Gòn Jean Cassaigne chấp nhận cho vào Sài Gòn, Dòng đã chuyển các học sinh vào Ban Mê Thuột. Sau một thời gian ngắn, vì không thể sống được ở Ban Mê Thuột, năm 1955, Dòng phải chuyển vào Sài Gòn với sự cho phép của Giám mục Sài Gòn lúc đó là Giám mục Simon Hòa Hiền. Tuy nhiên, phần lớn các học sinh lớn đã ở lại Giáo phận Kontum. Ban đầu, trụ sở hội dòng đặt ở Thủ Đức. Sau khi trụ sở hội dòng tại Thủ Đức được chuyển thành Đệ tử viện dành cho các học sinh muốn đi tu Dòng Don Bosco, các học sinh còn lại được chuyển về Gò Vấp, đến ngày 11 tháng 11 năm 1956, Trường Huấn nghiệp Gò Vấp được thành lập. Nơi đây trở thành cơ sở chính cho hoạt động xã hội của dòng Don Bosco tại Việt Nam cho đến tận cuối 1975. Từ năm 1973, Dòng cho khởi công xây dựng cơ sở cho một trường Kỹ thuật nữa ở Đà Nẵng với dự kiến niên học 1975 – 1976 sẽ khai giảng (tuy nhiên, dự định này đã không trở thành hiện thực).

Những hoạt động ban đầu của Dòng Salêdiêng Don Bosco Việt Nam thường do các tu sĩ và linh mục ngoại quốc điều hành. Mãi đến năm 1957, mới có hai tu sĩ Việt Nam đầu tiên. Năm 1960, Dòng bắt đầu mở Nhà Tập, năm 1972, mở Học viện tại Đà Lạt. Tháng 6 năm 1974, chi nhánh Dòng Don Bosco Việt Nam trở thành Phụ tỉnh Dòng Salêdiêng Don Bosco Việt Nam, trực thuộc Bề trên Cả.

Sau năm 1975, chính quyền Việt Nam trưng dụng hầu hết các cơ sở của Dòng Salêdiêng Don Bosco Việt Nam. Hoạt động của Dòng phải chuyển vào một số giáo xứ ở các Giáo phận Sài GònXuân LộcĐà lạt để có thể tồn tại, hoạt động và phát triển. Các tu sĩ ngoại quốc đã phải về nước và một số tu sĩ Việt Nam ra khỏi Dòng, năm 1975 có 120 tu sĩ, năm 1985 chỉ còn lại 78, do đó hoạt động của hội dòng gặp rất nhiều khó khăn. Chỉ có nhờ vào sự kiên trì cũng như nỗ lực không ngừng của các thành viên còn lại, Dòng Salêdiêng Don Bosco Việt Nam tồn tại và đã phát triển lên 304 tu sĩ, đang làm việc tại nhiều Giáo phận (Hà NộiThái BìnhBùi ChuThanh HóaVinhKon TumBan Mê thuộtĐà LạtXuân LộcBà RịaSài GònVĩnh LongLong Xuyên). Ngày 24 tháng 7 năm 1999, chi nhánh Dòng tại Việt Nam chính thức trở thành Tỉnh Dòng Don Bosco Việt Nam, trực thuộc Bề trên Cả.

NHỮNG THỜI ĐIỂM LỊCH SỬ SALÊDIÊNG VIỆT NAM

1941

(02-11) : Đức Cha Chaize, Đại diện Tông Tòa Hà Nội, cho phép Salêdiêng đến Hà Nội

1942

Cha Dupont và Cha Petit trong tư cách tuyên úy quân đội đến Việt Nam và khởi xướng công tác giúp các trẻ hè phố và nạn nhân chiến tranh

1945

(10-08) : Cha Dupont bị giết tại Kẻ Sở, Hà Nội

1948

(30-10) : Cha Paul Seitz ký bản Báo cáo cho Đại diện Tông Tòa về Cô nhi viện Têrêxa

 

(17-11) : Đại diện Tông Tòa Hà Nội ký nhận và giới thiệu cho Cha Giám Tỉnh và Cha Bề trên Cả Salêdiêng

1952

(27-05) : Đức Cha Trịnh Như Khuê, Giám mục Hà Nội, xin Cha Bề trên Cả gửi Salêdiêng đến Việt Nam

 

(13-06) : Lần thứ nhất, Đức Cha Gioan Dooley, Khâm sứ Tòa Thánh, gửi thư xin Cha Bề trên Cả cho Salêdiêng đến Việt Nam quản nhiệm Cô nhi viện Têrêxa, thay Cha Paul Seitz Kim vì ngài phải làm Bề trên Hiệp hội Truyền giáo

 

(16-07) : Lần thứ hai, Đức Cha Gioan Dooley gửi thư xin Cha Bề trên Cả cho Salêdiêng đến Việt Nam thay Cha Paul Seitz Kim vì ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Giám mục Kontum

 

(26-07) : Cha Bề trên Cả xin Cha Goffredo Roozen, Giám đốc Văn phòng Truyền giáo Hong Kong đến Việt Nam nghiên cứu vấn đề, đồng thời gửi thư cho Đức Khâm sứ giới thiệu Cha Roozen

 

(27-07) : Cha Bề trên Cả xin lỗi Đức Khâm sứ Tòa Thánh về sự chậm trễ, vì đang chờ Cha Giám tỉnh Carlo Braga đến Torinô trình bày vấn đề

1952

(3-10) : Cha Antôn Giacomino và Cha Anrê Majcen đến Hà Nội tiếp nhận Gia đình Têrêxa do Đức Cha Phaolô Kim (Paul Seitz) thành lập

 

(13-10) : Đức Cha Giuse Khuê cho phép thành lập Nhà Salêdiêng ở Thái Hà, Hoàng Long, Hà Nội

 

(19-10) : Đức Cha Phaolô Seitz Kim chính thức bàn giao Gia đình Têrêxa cho Salêdiêng

 

(08-11) : Đức Hồng Y Phumasoni Biondi, Tổng Trưởng Thánh Bộ Truyền bá Đức Tin và Cha Thư ký Celso Costantini thông báo cho Đức Khâm sứ về việc Dòng Salêdiêng chấp nhận gửi người tới điều hành Cô nhi viện Têrêxa

 

(13-12) : Cha Giám tỉnh Mario Acquistapace đến thăm Việt Nam

1953

(14-01) : Cha Bề trên Cả Renato Ziggiotti xin Đức Thánh Cha cho phép thành lập Nhà theo Giáo luật ở Hà Nội, thuộc Tỉnh Dòng Mẹ Phù Hộ, Trung Hoa

 

(20-01) : Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin chấp thuận

 

(22-01) : Văn Thư chấp thuận của Thánh Bộ các Dòng Tu

 

(14-03) : Cha Bề trên Cả Renato Ziggiotti ký Văn thư số 682 thành lập Nhà Têrêxa

 

(16-03) : Cha Tổng Thư ký thông báo cho Cha Giám tỉnh Hong Kong là Cha Mario Acquistapace

 

Cha Bohnen đến làm việc ở Gia đình Têrêxa

 

(Tháng 05) : Cha Giám tỉnh Mario Acquistapace kinh lý

 

Cha Generoso Bogo Quảng đến Việt Nam (Giám linh)

 

(Tháng 9) : Cha Phêrô Cuisset Quý đến (Quản lý)

 

(Tháng 11) : SH Bragion từ Aberdeen-Hong Kong đến Việt Nam

 

(30-11) : Cha Andrej Majcen Quang làm Giám đốc (1953-1954). Cha Cuisset Quý làm Quản lý. Cha Bohnen Bản làm Giám học. Cha Generoso Quảng làm Giám linh. Cha Antôn Giacomino làm Giải tội. SH Bragion Báu làm Giám xưởng

1954

(16-02) : Cha Antôn Giacômino về lại Braxin

 

(09-07) : SH Bragion Báu về Hong Kong báo cáo tình hình cho Cha Giám Tỉnh Mario

 

(15-07) : Cha Giám tỉnh Mario Acquistapace quyết định triệu hồi SDB về Hong Kong.

Đức Ông Dooley, Khâm sứ Tòa Thánh chấp nhận cho Cha Majcen về lại Hong Kong với điều kiện là sắp xếp nơi ở mới cho các Trẻ mồ côi

Tìm nơi Sài Gòn không được, vì Đức Cha Cassaigne không cho phép.

Đức Cha Phaolô Seitz Kim kêu tới Ban Mê Thuột

 

(20-07) : Hiệp định Génève chia đôi Việt Nam. Để tồn tại và phát triển Công cuộc Don Bosco phải di chuyển vào Nam

 

(Th 6- Th 7) : Cha Majcen vào Sài Gòn và Ban Mê Thuột tìm chỗ để di chuyển Gia đình Têrêxa vào Nam. Sắp xếp xong, Cha Majcen vâng lời Bề trên về Hong Kong.

Cha Cuisset Quý tạm thời điều hành Cô nhi viện Têrêxa.

(24-08) : Di chuyển vào Miền Nam, tạm lưu ngụ tại Giang sơn, Ban Mê Thuột

 

(Tháng 10) : Cha Giám tỉnh Acquistapace thăm Ban Mê Thuột và quyết định chuyển Công cuộc Don Bosco về Sài Gòn, và chuyển các em đệ tử sang Kowloon, Hong Kong

1955

(15-01) : Chuyển 200 học sinh đến Thủ Đức và 60 học sinh đến Gò Vấp

1956

Cha Majcen Quang và SH Mario Lục đến Việt Nam

 

(11-11) : Thành lập Công cuộc Don Bosco Gò vấp (Gia đình Don Bosco và Huấn nghiệp) (Cha Cuisset Quý làm Giám đốc)

 

Thành lập Đệ tử viện Don Bosco Thủ Đức (Cha Majcen Quang làm Giám đốc)

1958

Don Bosco Việt Nam trở thành Phụ tỉnh của Tỉnh Dòng Trung Hoa.

Cha Anrê Majcen làm Bề trên Phụ tỉnh đầu tiên

 

(19-05) : Cha Majcen Quang về thăm quê hương

1959

(19-05) : Cha Majcen Quang trở lại Việt Nam

 

Cha Mariô đến Việt Nam thay Cha Majcen Quang làm Bề trên Phụ tỉnh

 

(Tháng 6) : Cha Giám tỉnh Bernard Tohill đến thăm

 

(04-09) : Sắc lệnh của Cha Bề trên Cả Renato Ziggiotti bổ nhiệm Cha Majcen Quang làm Tập sư và thành lập Nhà Tập

1960

(15-8) : Mở Tập viên đầu tiên, Cha Anrê Majcen Quang làm Tập sư với 9 Tập sinh

1961

(22-08) : 6 Hội viên Việt Nam đầu tiên khấn tại Việt Nam

1962

(15-08) : 8 trên 11 Tập sinh năm Tập thứ hai khấn

 

(Tháng 10) : Di chuyển Nhà Tập lên Trạm Hành, Đơn Dương, Đà Lạt

1963

(21-01) : Năm Tập thứ ba

 

Mở Đệ tử viện dành cho ơn gọi Salêdiêng Sư huynh ở Gò vấp

1966

Mở trường Tông đồ ở Trạm Hành

1968

Trường Huấn nghiệp Gò vấp trở thành Trung Học Kỹ Thuật Don Bosco

 

(22-08) : Don Bosco Việt Nam chính thức trở nên Phụ Tỉnh, có Bề trên và Ban Tham vấn (Cha Mario Acquistapace làm Bề trên Phụ tỉnh)

1972

(24-2) : Khởi sự công cuộc ở Đà Lạt : Học viện Don Bosco

1972

Tu nghị Tỉnh đầu tiên tại Trạm Hành

Lập kế hoạch tái bố trí và phát triển : Trạm hành, Tam hải, Đà nẵng, Đà Lạt, Bảo lộc

1974

(Tháng 6) : Đại hội Sư huynh Việt Nam

 

(12-07) : Don Bosco Việt Nam trở thành Phụ Tỉnh (Delegation of Rector Major), trực thuộc Cha Bề trên Cả

 

Cha Aloysio Massimino làm Bề trên Phụ tỉnh (Delegate of Rector Major)

1975

(1-5) : Cha Gioan Ty làm Bề trên Phụ Tỉnh với nhiều đặc quyền của Cha Bề trên Cả

Bỏ Trạm hành. Trao Trường Kỹ thuật Don Bosco Gò vấp

 

(12-5) Mở các công cuộc ở Liên Khương, Thanh Bình, thuộc Giáo phận Đà Lạt

 

(Th 5 – Th 10) Mở Bến Cát, Ba Thôn, thuộc Giáo phận Sài gòn

Phú Sơn, Tân Cang, thuộc Giáo phận Xuân Lộc

Duy trì Nhà tập ở Tam Hải

 

(7-10) Đức Huy

1975

(31-8) : Các thừa sai ngoại quốc tuần tự phải về nước

1976

(23-7) : Cha Anrê Majcen Quang, thừa sai đầu tiên đến Việt Nam, và cũng là thừa sai cuối cùng rời khỏi Việt Nam

1977

(3-10) : Don Bosco Việt Nam mừng 25 Năm Hiện Diện

1977

(Tháng 11) : Tu nghị Tỉnh tại Thủ Đức : Xác định đường hướng cho giai đoạn mới

1978

(24-1) : Lễ khấn tại Don Bosco Thủ Đức, rồi sau đó phải bỏ Don Bosco Thủ Đức vì Nhà Nước tịch thu

1979

Mở các công cuộc khác : Hiền đức, Hóc môn, Cầu Bông, Củ Chi, Xuân Hiệp

1980

Tu nghị Tỉnh tại Đà Lạt đẩy mạnh Mục vụ Ơn gọi

1982

Tiếp nhận công cuộc ở Cẩm Đường, Suối Quít

1984

(24-1) : Mở Nhà tập với chu kỳ hai năm

1984

(12-12) : Cha Bề trên Cả ký quyết định thành lập Á Tỉnh Don Bosco Việt Nam, Cha Gioan Nguyễn Văn Ty là Bề trên đầu tiên

1985

Chính thức phục vụ tại Nghĩa lâm (Đà Lạt), Phước Lộc (Xuân Lộc)

1988

(Tháng 11) : Phục vụ Họ đạo Thánh Giuse, Cần Giờ

1991

(24-05) :  Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ làm Bề trên Á Tỉnh

 

Đẩy mạnh việc phục vụ tại các điểm truyền giáo người dân tộc : K’Ren, K’Long, Bắc Hội

1993

(Tháng 3) : Cha Bề trên Cả Egidio Viganò đến thăm Việt Nam.

Ngài đã mời gọi Don Bosco Việt Nam chú tâm đến mục vụ ơn gọi để gia tăng hội viên và hướng về Miền Bắc (Hà Nội) và Miền Tây (Cầu Vồng, Vĩnh Long)

1996

Mở công cuộc tại Tân Hà, Bảo lộc

1997

(14-07) : Cha Gioan Nguyễn Văn Ty làm Bề trên Á Tỉnh

1998

(Tháng 10) : Cha Bề trên Cả Juan Vecchi thăm viếng Việt Nam

1999

(Tháng 6) : Thành lập một số cộng thể theo Giáo luật : Ba Thôn, Bến Cát, Cầu Bông, Hóc Môn, Xuân Hiệp 2 (Rinaldi), Đức Huy, Phước Lộc, K’ Long, Liên Nghĩa

1999

(02-07) : Cha Bề trên cùng 15 Anh em lên đường đi Roma, trong đó có hai anh em là Tuấn Anh và Công Phán đi Truyền giáo Papua New Guinea.

1999

(24-07) : Thành lập Tỉnh Dòng Don Bosco Việt Nam

Cha Gioan Ty làm Giảm Tỉnh đầu tiên

2000

(Tháng 6) : Thành lập các Điểm Hiện diện : Hà Nội, Tân Cang, Bắc Hội, Tân Hà, Cần Giờ, Cầu Vồng

 

(Tháng 10) :  Đảm nhận Công cuộc Truyền giáo ở Mongolia

2001

(14-07) : Đức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm là Đức Giám mục Salêdiêng Việt Nam đầu tiên, được bổ nhiệm làm Giám mục Bùi Chu.

(08-08) : Lễ tấn phong Giám mục được cử hành tại Bùi Chu

2001

(03-10) : Bắt đầu Năm chuẩn bị Lễ Mừng 50 Năm Don Bosco Việt Nam

 

(20-10) : Chính thức thành lập Cộng thể Ulaanbataar, Mongolia.

2002

(03-10) : Lễ Mừng 50 Năm Don Bosco Hiện diện tại Việt Nam. Có Cha Phó Bề trên Cả, Đại diện Bề trên Cả, đến dự, ngoài ra còn có Cha Klement, Tổng Cố vấn Vùng, và các Cha Gíam tỉnh hay đại diện các ngài.

 

(05-10) : Đại hội Giới trẻ Salêdiêng mừng 50 Don Bosco Việt Nam : Trong Thánh Lễ Cha Phó Bề trên Cả trao Thánh Giá Truyền giáo cho Cha Giuse Bình và Sư Huynh Giuse Lập.

2003

(02-07) : Bề trên Cả bổ nhiệm Cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Thêm làm Giám tỉnh với nhiệm kỳ 2003-2009

 

(19-07) : Giám tỉnh tuyên xưng Đức Tin đảm nhận nhiệm vụ

2004

(01-04) : Ký Hợp đồng với Đức Hồng Y Tổng Giám mục Giáo phận Tp Hồ Chí Minh về Giáo xứ Bình Chánh và Cầu Lớn

2005

(28-02) : Bắt đầu Công cuộc ở Darkhan, Mông Cổ.

 

(03-03) : Truyền chức Linh mục cho 08 anh em theo Pháp Lệnh mới về Tự do Tôn giáo, Tín Ngưỡng

 

(29-11) : Cha Phêrô Đệ được Đức Thánh Cha Bênêđitô bổ nhiệm Giám mục Phụ tá Giáo phận Bùi Chu – Lễ tấn phong Giám mục được cử hành ngày 18-01-06 tại Bùi Chu

2006

(03-04) : Cha Bề trên Cả cho phép mở Công cuộc ở Phương Chính, Hải Hậu, Giáo phận Bùi Chu; ở La Sơn, Pleiku, Giáo phận Kontum; ở Mỹ Lâm, Hòn Đất, Giáo phận Long Xuyên; ở Vĩnh Hiệp, Rạch Giá, Giáo phận Long Xuyên;

 

(14-06) : Cha Bề trên Cả cho phép mở Công cuộc ở K’rong No, Lak, Giáo phận Ban Mê Thuột; ở Đạt Hiếu, Buôn Hồ, Giáo phận Ban Mê Thuột; ở Yên Thịnh, Kỳ Anh, Giáo phận Vinh

 

(06-07) : Cha Bề trên Cả chấp thuận việc thành lập cộng thể Đông Thuận theo Giáo luật

 

(16-09) : Từ giả Giáo xứ Bình Sơn, Long Thành, Giáo phận Xuân Lộc

2007

(08-04) : Ký Hợp đồng với Đức Hồng Y Tổng Giám mục Giáo phận Tp Hồ Chí Minh về Giáo điểm Bình Minh

 

(09-04) : Cha Bề trên Cả Pascual Chávez đến thăm Việt Nam, cùng đi với ngài có Cha Klement, Tổng Cô vấn Vùng, và Cha Bartolomè, Thư ký

 

(08-05) : Tu nghị Tỉnh Năm 2007 khai mạc. Các Đề tài của TNT gồm có : Đề tài của TTN 26, Kế hoạch Tỉnh, Phần Quản trị Tài chánh của Nội Quy Tỉnh.

 

(18-05) : TNT 2007 kết thúc với quyết tâm “KIỆN CƯỜNG CĂN TÍNH ĐOÀN SỦNG SALÊDIÊNG VÀ LÀM THỨC TỈNH LẠI LÒNG NHIỆT THÀNH TÔNG ĐỒ”

 

(27-07) : Cha Bề trên Cả ký Văn Thư thành lập theo Giáo luật hai Cộng thể ở Mongolia là Amagalan và Darkhan

 

(07-09) : Cha Giuse Thái chính thức đảm nhận Giáo xứ Vạn Phúc, Hà Nội

 

(14-09) : Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Thanh Hoá ký Giấy Đồng Ý cho Tổ Chức Dòng Don Bosco phối hợp với Uỷ Ban Nhân Dân Xã Sầm Sơn lập đề án thành lập Trung Tâm Dạy Nghề Tư Thục tại Phường Trung Sơn, Thị xã Xầm Sơn, Tỉnh Thanh Hoá, do Dòng Don Bosco Việt Nam đầu tư

 

(03-10) : Để kỷ niệm 55 Năm Don Bosco hiện diện tại Việt Nam, Giám tỉnh và Ban Cố vấn tỉnh cùng với Cộng thể Rua Đà Lạt cử hành Thánh Lễ cầu nguyện cho Tỉnh Dòng, sau đó cử hành nghi thức làm phép đất và công việc xây dựng Nhà Tĩnh Tâm ở K’long, có đại diện một số anh em SDB Đà Lạt tham dự.

 

(05-11) : Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Hà Tĩnh ký Quyết đinh cho phép thành lập Trung tâm dạy nghề Tư thục Kỳ Anh, Hà Tĩnh

 

(11-11) : Đức Cha Micae Oanh, Giám mục Giáo phận Kontum giới thiệu Cha Giuse Thuyết đảm nhận Giáo xứ Thanh Hà và địa bàn truyền giáo Chư Prong, Gia Lai.

 

Tổ chức

  • Dòng Salêdiêng Don Bosco là một cộng đoàn giáo sĩ của các linh mục, tu sĩ và cư sĩ.
  • Quyền lập pháp được thực hiện bởi các tổng hội, đáp ứng mỗi nhiệm kỳ là sáu năm; chương trình được tổ chức ba năm một lần.
  • Chính quyền trung ương được giao phó chung cho một linh mục bề trên, mang danh hiệu của Bề Trên Cả và những người được hỗ trợ bởi Hội đồng các tỉnh, được gọi là Giám tỉnh, với sự tham gia của một Giám tỉnh, giao cho các Hội đồng tỉnh, các cộng đồng địa phương được điều hành bởi một Giám đốc.
  • Kể từ năm 1965 các Tỉnh dòng được chia thành các khu vực, trong đó cung cấp các mối liên kết giữa chính quyền trung ương và các tỉnh.
  • Năm 2008 số hội viên Sa-lê-diêng trên toàn thế giới là 16.092, tại 1.859 nhà kể cả các Giám mục và tập sinh. Họ hiện diện trên 130 quốc gia trải khắp các lục địa.
  • Các công cuộc của họ được phân chia thành từng Miền, Tỉnh dòng và Địa phương.
  • Cả thảy có 8 Miền với 93 Tỉnh dòng, cùng nhau đảm trách 7.610 công cuộc (liên quan đến đào luyện, nguyện xá, trung tâm trẻ, trường học, lưu xá, ơn gọi, giáo xứ, công tác xã hội, truyền thông xã hội, trụ sở tỉnh dòng).
  • Gia đình Sa-lê-diêng gồm 26 tổ chức khác nhau được hình thành theo thời gian nhằm phát huy nguồn gợi hứng từ lối sống và đoàn sủng của Don Bosco.
  • Ngay thời của Don Bosco đã có 4 tổ chức: Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu (14.665 hội viên), Hội Cộng Tác Viên Sa-lê-diêng (khoảng 24.000), Hội Cựu Học Viên Don Bosco (khoảng 97.300) và Hiệp Hội Đức Ma-ri-a Phù Hộ Các Giáo Hữu (ADMA).

(Nguồn: CG 26, Niên giám 2009, Thống kê 31/12/2008 và Dati Statistici, 2008).

 

Bản đồ các tổ chức khu vực của Dòng Salêdiêng – Don Bosco được thành lập trên thế giới.

Các khu vực Tỉnh dòng và Á tỉnh Salêdiêng Don Bosco có vị trí rải rác trên khắp thế giới

Trung Mỹ Nam Mỹ Bắc Âu Tây Âu Ý – Trung Đông Châu Phi Nam Á Đông Á – Châu Đại Dương
Antilles (ANT) Buenos AiresArgentina (ABA) Áo (AUS) Nam Bỉ (BES) TrivenetoÝ(IAD) Trung Phi (AFC) BangaloreẤn Độ (INK) Úc – Fiji – Samoa (AUL)
Bolivia (BOL) Bahía Blanca, Argentina (ABB) Bắc Bỉ (BEN) Pháp (FRA) Piedmont & Valle d’ Aosta, Ý (ICP) Đông Phi (AFE) Chennai, Ấn Độ (INM) Trung Quốc – Hồng Kông – Macao – Đài Loan (CIN)
Trung Mỹ (CAM) Cordoba, Argentina (ACO) Cộng hòa Séc (CEP) Bồ Đào Nha (POR) Lombardy – Emilia Romagna, Ý (ILE) Á tỉnh
Ethiopia – Eritrea (AET)
Dimapur, Ấn Độ (IND) Timor Leste (TL)
Canada (CAN) La Plata, Argentina (ALP) Croatia (CRO) BarcelonaTây Ban Nha (SBA) Liguria – Tuscany, Ý (ILT) Á tỉnh
Tropical Equatorial (ATE)
Guwahati, Ấn Độ (ING) Hàn Quốc (KOR)
BogotaColombia (COB) Rosario, Argentina (ARO) Đông Âu (EST) Bilbao, Tây Ban Nha (SBI) Sicily, Ý Á tỉnh
Tây Phi thuộc Pháp (AFO)
Hyderabad, Ấn Độ (INH) Nhật Bản (GIA)
Medellin, Colombia (COM) Belo HorizonteBrasil (BBH) Đại Anh (GBR) Leon, Tây Ban Nha (SLE) Đông Bắc Ý (INE) Á tỉnh
Tây Phi thuộc Anh (AFW)
Kolkata, Ấn Độ (INC) Papua New GuineaQuần đảo Solomon (FIN)
Ecuador (ECU) Salvador, Brazil (BSD) Đức (GER) Madrid, Tây Ban Nha (SMA) Sardinia, Ý (ISA) Á tỉnh
Angola (ANG)
Mumbai, Ấn Độ (INB) Bắc Philippin (FIN)
Nam Philippin (FIS)
Haiti (HAI) Campo Grande, Brazil (BCG) Malta (MLT) Hungary (UNG) Sevilla, Tây Ban Nha (SSE) Sicily, Ý (ISI) Á tỉnh
Madagascar (AFO)
New Delhi, Ấn Độ (INN)
GuadalajaraMéxico (MEG) Manaus, Brazil (BMA) Ireland (IRL) Valencia, Tây Ban Nha (SVA) Trung Đông (MOR) Á tỉnh
Zambia – Malawi – Zimbabwe – Namibia (ZMB)
Tiruchy, Ấn Độ (INT) Thái Lan – Campuchia – Lào (THA)
Mexico City, Mexico (MEM) Porto Alegre, Brazil (BPA) WarszawaBa Lan (PLE)     Á tỉnh
Maputo (MOZ)
Panjim, Ấn Độ (INP) Việt Nam – Mông Cổ (VIE)
Peru (PER) Porto Velho, Brazil (BPV) Pila, Ba Lan (PLN) Phụ tỉnh
Rwanda – Burundi – Goma (RBG)
Á tỉnh
YangonMyanmar (MYM)
 
Đông Hoa Kỳ (SUE) Recife, Brazil (BRE) Wroclaw, Ba Lan (PLO)   Á tỉnh
ColomboSri Lanka (LKC)
Tây Hoa Kỳ (SUO) Sao Paolo, Brazil (BSP) Krakow, Ba Lan (PLS)  
Venezuela (VEN) Chile (CHL) Slovakia (SLK)
  Paraguay (PAR) Slovenia (SLO)
Uruguay (URU) Ukraina (UKR)

Định hướng

Hiến luật số 2 của tu hội khẳng định:

  • “Chúng ta, những người Salêdiêng Don Bosco (SDB) tạo thành một cộng thể những người được thanh tẩy, mau mắn vâng nghe tiếng Chúa Thánh Thần, nguyện thực hiện kế hoạch tông đồ của Đấng Sáng lập trong một hình thức chuyên biệt của đời tu: trong Hội Thánh [1], chúng ta là những dấu chỉ và người mang tình yêu Thiên Chúa đến cho thanh thiếu niên, đặc biệt những em nghèo khổ nhất”.
  • “Trong khi chu toàn sứ mệnh này, chúng ta tìm được con đường nên thánh cho mình”.
  • “Tu hội chúng ta gồm giáo sĩ và giáo dân sống cùng một ơn gọi trong sự bổ sung huynh đệ” (HL 4).

Hiến luật 6 nêu rõ sứ mệnh Salêdiêng bao gồm những lãnh vực sau đây:

  • “Trung thành với những cam kết Don Bosco truyền lại, chúng ta là những người rao giảng Tin mừng cho thanh thiếu niên, cách riêng những em nghèo khổ hơn cả; chúng ta đặc biệt chăm sóc các ơn gọi tông đồ; chúng ta là những người giáo dục đức tin trong các môi trường bình dân, đặc biệt với việc truyền thông xã hội; chúng ta loan báo cho các dân tộc Tin mừng mà họ chưa được nhận biết”.

Hoạt động

  • Giáo dục trực tiếp: Các Nguyện xá và Trung tâm trẻ, các trường học thuộc mọi cấp và các trung tâm huấn nghệ. Các trường nội trú và các nhà mở cho các trẻ em gặp khó khăn, các trường đại học, các trung tâm giáo lý và mục vụ. Công cuộc Salêdiêng chủ yếu nhắm đến các thanh thiếu niên.
  • Trực tiếp Phúc âm hóa: khoảng 1.000 giáo xứ được trao cho các Salêdiêng điều hành. Tu hội đã khởi sự với một lớp giáo lý và giờ đây được ủy thác việc tân Phúc âm hóa trong thế giới hiện đại.
  • Trực tiếp truyền giáo: Hiện nay có khoảng 3.000 Salêdiêng đang thực hiện công việc truyền giáo. Họ đang hoạt động trong mọi lãnh vực truyền giáo khác nhau trên khắp năm châu lục.

Sau Mỹ Latinh, các Salêdiêng tổ chức “Kế hoạch châu Phi“, hiện có khoảng 1.000 Salêdiêng đang làm việc tại đó. Cũng đã có cuộc đàm phán về một nhóm “Phục vụ Trung Hoa“. Các Salêdiêng đang hoạt động tại hơn 130 quốc gia trên thế giới. Hiến luật quả quyết rằng người Salêdiêng nên thánh qua việc thực thi sứ mệnh của mình.

Gia đình Salêdiêng

Gia đình Salêdiêng ngày nay

Chính Don Bosco đã cưu mang ý tưởng về Gia đình Salêdiêng[2]. Ngày nay, Gia đình này có 23 nhóm và làm việc hầu như ở mọi nước trên thế giới. Chúng ta có thể liệt kê vài nhóm:

  • Salêdiêng Don Bosco (SDB): còn gọi tu hội Thánh Phanxicô Đệ Salê là những người theo tinh thần thánh Phanxicô Salê của Don Bosco, là tu hội lớn trong Giáo hội Công giáo, bao gồm linh mục, sư huynh đang hoạt động trên 130 nước trên thế giới.
  • Con Đức Mẹ Phù Hộ (FMA): còn gọi The Salesian Sisters of St John Bosco: được Don Bosco thành lập với sự cộng tác của Thánh Maria Mazzarello, là một trong những tu hội lớn trong Giáo hội (Công giáo), một hiện diện phẩm chất và năng động trong thế giới đang thách đố tác vụ giới trẻ.
  • Chí Nguyện Don Bosco (VDB): được cha Bề Trên Cả Phillip Rinaldi thành lập, là một tu hội đời bao gồm các nữ tín hữu được thánh hiến, làm việc theo tinh thần của Don Bosco.
  • Cộng tác viên Salêdiêng: là những giáo dân và linh mục sống Tin Mừng trong thế giới theo tinh thần của Don Bosco, trong việc phục vụ giới trẻ và giáo hội địa phương.
  • Hiệp Hội Cựu học viên Don Bosco/FMA: bao gồm các cựu hội viên Salêdiêng nam nữ cam kết dấn mình vào sứ mệnh giáo dục giới trẻ trong gia đình, khu xóm và Giáo hội địa phương.
  • Hội Truyền giáo Giáo dân Salêdiêng: gồm những người nam nữ, độc thân hoặc đã lập gia đình, tự nguyện làm việc trong thời gian một năm hoặc nhiều hơn, bên cạnh những SDB hay FMA tại các nước truyền giáo có người Salêdiêng phục vụ.

(Nguồn: Theo tài liệu Don Bosco – Kỷ niệm 50 năm Don Bosco Việt Nam 1952 – 2002 _ Tỉnh Dòng Salêdiêng Don Bosco – Việt Nam)

Các mối liên kết

Các thành phần của Gia đình này do nền giáo dục họ nhận thức được. Họ sẽ liên kết mật thiết hơn với nhau khi họ cam kết tham dự vào sứ mệnh Salêdiêng trên thế giới (HL 5).

  • Hiến luật nêu rõ: “Bắt nguồn từ Don Bosco là cả một phong trào rộng lớn của những người hoạt động nhằm cứu rỗi giới trẻ, dưới những hình thức khác nhau”.
  • Nhờ sống cùng một tinh thần và trong sự hiệp thông với nhau, những nhóm này tiếp tục sứ mệnh do ông khởi xướng, với những ơn gọi chuyên biệt khác nhau. Cùng với những nhóm này và các nhóm khác phát sinh sau đó, chúng ta tạo thành Gia đình Salêdiêng.
  • Theo ý người sáng lập, họ có trách nhiệm đặc biệt trong gia đình này là gìn giữ sự hiệp nhất tinh thần, khích lệ sự đối thoại và cộng tác huynh đệ nhằm làm phong phú cho nhau và đạt tới hiệu năng tông đồ lớn lao hơn.
  • Đây không chỉ là lời công bố long trọng trong Hiến luật. Những hệ quả cụ thể được rõ ràng nêu lên trong Qui chế có liên quan đến việc phục vụ các tu sĩ Salêdiêng phải cống hiến cho Gia đình Salêdiêng. Nhiệm vụ của giám tỉnh và giám đốc, được các ủy viên liên hệ hỗ trợ, là gây ý thức nơi các cộng thể, để các cộng thể thực hiện những nhiệm vụ của mình trong Gia đình Salêdiêng.
  • Chiếu theo sự thỏa thuận với nhiều nhóm khác nhau, trong tinh thần phục vụ và tôn trọng quyền tự lập của mỗi nhóm, các cộng thể sẽ: Cống hiến cho họ sự hỗ trợ thiêng liêng; Cổ vũ các cuộc họp; Khuyến khích sự hợp tác giáo dục mục vụ và vun trồng sự dấn thân chung về ơn gọi.

Nhân sự

Các Bề trên Cả (Bề trên Tổng quyền)

  • Lm. Micae Rua [3] là người kế vị Don Bosco, quản nhiệm từ ngày Don Bosco qua đời cho đến tháng 4 năm 1910.

        

  • Lm. Pascual Villanueva Chavez: 3 tháng 4, 2002-2015

  • Lm. Ángel Fernández Artime (2015-nay)- Tiến sĩ Thần học, Cử nhân Triết Học

Các bề trên tại Việt Nam

Phụ tỉnh dòng[sửa | sửa mã nguồn]

  • Lm. Andrej Majcen (tên tiếng Việt là: Quang), Bề trên Phụ tỉnh đầu tiên (1958)

  • Lm. Mario Acquistapace làm Bề trên Phụ tỉnh (1959 – 1968)
  • Lm. Aloysio Massimino làm Bề trên Phụ tỉnh (1968 – 1974)
  • Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty làm Bề trên Phụ Tỉnh với nhiều đặc quyền của Cha Bề trên Cả (1974 – 1984)

 

Á tỉnh dòng

  • Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty làm Bề trên Á Tỉnh đầu tiên (1984 – 1991)
  • Lm. Phêrô Nguyễn Văn Đệ làm Bề trên Á Tỉnh (1991 -1997)
  • Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty tái nhiệm làm Bề trên Á Tỉnh (1997 – 1999)

Giám tỉnh dòng

  • Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty: Bề trên Giám tỉnh đầu tiên (1999 – 2003)

  • Lm. Gioan Baotixita Nguyễn Văn Thêm: (2003 – 2009)

 

  • Lm. Giuse Trần Hòa Hưng: (2009 – 2015)
  • Lm. Giuse Nguyễn Văn Quang: (2015 – 2021)

  • Lm. Barnaba Lê An Phong làm Bề trên Tỉnh Dòng (2021)

 

Visited 1.117 times, 1 visit(s) today