Cha Guerrino Luvisotto, Sdb (1912 – 1986)

CHA GUERRINO LUVISOTTO, SDB (1912 – 1986)                                     

  1. Tiểu Sử cuộc đời

Cha Guerrino Luvisotto SDB, tên Việt Nam là cha Lương, sinh ngày 13 tháng 7 năm 1912 tại Italia. Ngài theo ơn gọi Salêdiêng, khấn dòng ngày 8 tháng 12 năm 1937, thụ phọng linh mục ngày 8 tháng 6 năm 1949. Trước khi truyền giáo tại Việt Nam, ngài từng làm việc tại Thượng Hải, Macao. Năm 1957, ngài đến truyền giáo tại Việt Nam.

Cha Guerrino Luvisotto sống và làm việc tại Việt Nam, từng giữ các chức vụ Quản lý và Phó giám đốc, theo niên giám tỉnh dòng Trung Hoa và Phụ tỉnh Don Bosco Việt Nam như sau:

1957 – 1958: Từ Macao đến Việt Nam, cha Guerrino Luvisotto được sai tới Đà Lạt coi sóc Đan Viện do dòng Don Bosco mua lại của dòng Biển Đức (sau đó bán lại cho các nữ tu Thừa Sai Phan Sinh)

1958 – 1962: Quản lý nhà Thủ Đức

1962 – 1966: Quản lý nhà Gò Vấp

1966 – 1968: Phó giám đốc nhà Gò Vấp

1968 – 1969: Cha giải tội nhà Thủ Đức

1969 – 1970: Quản lý nhà Thủ Đức

1971 – 1972: Phó giám đốc nhà Thủ Đức

1974 – 1975: Phó giám đốc và quản lý nhà Thủ Đức

Sau biến cố 1975, cha Guerrino Luvisotto trở về Italia vào ngày 9 tháng 6 năm 1976 và qua đời vào ngày 06 tháng 02 năm 1986, truyền giáo tại Việt Nam 18 năm.

  1. Truyền giáo tại Việt Nam

Có thể nói cuộc đời truyền giáo của cha Guerrino Luvisotto gắn liền với cha Anrê Majcen. Theo lời kể, cha Majcen đã biết ngài từ những năm 1946, khi đến Thượng Hải dự Tu Nghị Tỉnh. Năm 1957, cha Luvisotto đến Việt Nam và được sai tới Đà Lạt coi sóc Đan Viện do cha các tu sĩ dòng Don Bosco mua lại của dòng Biển Đức với ý định sẽ làm nhà Tập và nơi nghỉ dưỡng. Tại đây, với bộ óc thực tiễn, cha Luvisotto đã mở trại nuôi gà, thỏ và cá. Nhưng không chỉ biết công việc canh tác trồng trọt, ngài cũng rất tháo vát trong việc tiếp đón những vị khách quan trọng như Tổng thống Ngô Đình Diệm và những quan chức chính phủ người Pháp và người Việt thời bấy giờ.

Tuy nhiên, sau này khi khu đất đó được nhượng lại cho dòng Thừa Sai Phan Sinh, cha Luvisotto được trao trách nhiệm làm quản lý nhà Đệ Tử Viện Don Bosco Thủ Đức, chính thức thành lập năm 1958. Cuốn tự thuật của cha Majcen (Lubjana 1989) ghi lại như sau: “Năm 1959, cha Anrê Majcen trở về Thủ Đức sau chuyến làm việc tại Âu Châu, ngài được bổ nhiệm làm Tập sư, tuy nhiên trong năm đó ngài vẫn còn phải lo công việc của nhà Đệ tử viện, rồi sau đó mới hoàn toàn lo công việc của tập sư. Cha Guerrino Luvisotto một lần nữa lại đến giúp cha Majcen. Tình bạn thân thiết sâu đậm ngày một gắn bó giữa cha Majcen và cha Luvisotto”.[1]

Năm 1960, tập viện được chuyển lên Trạm Hành, cũng theo cuốn tự thuật của cha Majcen, ngài luôn thấy sự cộng tác nhiệt tình của cha Luvisotto: phá những bức tường cũ để xây một nhà ngủ lớn, nhà nguyện và nhà hội. Khi thấy cuộc sống của các thầy tập sinh thiếu thốn nhiều thứ tại Trạm Hành, ngài liền đem một xe tải chở đầy đồ từ Sài gòn lên: từ thức ăn tới những vật dụng cần thiết khác.

Cha Luvisotto làm mọi việc tại các nhà khác nhau suốt thời các giám tỉnh Tohill, Lui Massimino, Machuy và thời các giám đốc Mario Acquistapace, Generoso Bogo, Isidoro Lê Hướng, Walter Wouwe và Anrê Majcen.

Nhiệm vụ chính của cha Luvisotto hầu hết là quản lý các nhà Thủ Đức và Gò Vấp, nhưng ngài cũng luôn sẵn sàng hỗ trợ các bề trên trong các công việc khác, chẳng hạn việc xây dựng Tập viện Trạm hành (1960) và Học viện Đà Lạt (1972). Ngài gần như vị quản lý của Phụ tỉnh Việt Nam thời bấy giờ: ngài lo liệu các đồ ăn uống, đồ dùng: gạo, dầu, gỗ, quần áo từ các Tổ chức Bác Ái, từ binh lính Mỹ (trại Long Bình, Biên Hoà).

Dù nhiệm vụ của ngài là quản lý, nhưng công việc quan trọng nhất của ngài vẫn là việc đào luyện ơn gọi Salêdiêng, cụ thể là việc tuyển chọn các đệ tử cho ơn gọi linh mục và sư huynh. Theo cha Anrê Majcen, ngài có khả năng đánh giá và chọn lựa những ơn gọi tốt và chỉ chọn những ơn gọi tốt mà thôi.[2]

Sau biến cố 1975, ngài rời khỏi Việt Nam vào ngày 9/6/1976 trở về Italia. Ngài tiếp tục công việc giải tội và rất được nhiều người tìm đến để lãnh ơn bình an của Chúa. Ngài qua đời ngày 06 tháng 02 năm 1986.

  1. Tính cách một nhà truyền giáo

3.1. Làm việc, làm việc, làm việc

Cha George Williams trong một lần nọ nói rằng, Don Bosco không chỉ hứa cho chúng ta ba từ, nhưng là năm từ: “Làm việc, làm việc, làm việc, cơm ăn và thiên đàng”. Sự thực là Don Bosco thường lập đi lập lại hạn từ “làm việc”, chẳng hạn ngài nói: “Làm việc, làm việc, làm việc. Đó chính là mục đích và vinh quang của một linh mục! Đừng bao giờ mệt mỏi vì làm việc. Biết bao linh hồn sẽ được cứu”. Đối với các học sinh ngài nói: “Các con yêu dấu của cha! Cha không yêu cầu chúng con phải có những hy sinh lớn lao. Cha chỉ đơn giản kêu mời chúng con: làm việc, làm việc, và làm việc!”.[3]

Theo gương Don Bosco, cha Guerrino Luvisotto là mẫu người làm việc không mỏi mệt vì lợi ích các linh hồn. Thân hình vạm vỡ, khỏe mạnh, ngài hăng say làm việc, không sợ mệt nhọc.

 Nhiều năm làm quản lý, cha Guerrino Luvisotto không quản ngại công việc chân tay: trồng trọt tại khu đất mới mua của Đan viện Biển Đức ở Đà Lạt, lo liệu xây dựng Nhà Nguyện kính thánh Giuse tại Don Bosco Thủ Đức với sức chứa cho khoảng 400 học sinh, chăm sóc nhà cửa, “khu chuồng gà, chuồng heo, khu nhà kho gỗ, và liên lạc với Cơ Quan Cứu Trợ Công giáo để tìm gạo và đồ ăn cho các học sinh. Tóm lại, một mái nhà đơn sơ nhưng có đủ cơm ăn, mương nhà được khai thông để cho nước thoát là những công việc thông thường của cha Luvisotto”.[4]

Khi mở Nhà Tập vào năm 1960, điều đầu tiên là lo liệu cơ sở vật chất cho các Tập sinh và cha Tập sư. “Cha Anrê Majcen bắt đầu thu thập tiền nong cho công việc xây dựng nhà Nguyện, còn cha Luvisotto lo việc khởi công xây dựng Nguyện đường, rồi sau đó trở lại Gò Vấp chuẩn bị khu nhà mở trường Kỹ Thuật… Tóm lại, nơi đâu có công việc nặng nhọc, ở đó có cha Luvisotto”.[5]

Khi Nhà Tập chuyển lên Don Bosco Trạm Hành (Đà Lạt) và mở trường Tông đồ cho học sinh cấp II, cha Guerrino Luvisotto xây dựng nhà Nguyện, nhà Hội, nhà ngủ.

Don Bosco từng nói rằng: “Thế giới ngày càng trở nên vật chất hóa, vì thế chúng ta phải làm việc và quảng bá những điều tốt. Nếu ai đó làm phép lạ qua việc cầu nguyện ngày và đêm trong phòng của anh ta, thì thế giới chẳng chú ý và tin vào anh ta. Thế giới cần nhìn thấy và tiếp chạm. Thế giới hiện tại muốn thấy công việc, muốn thấy việc làm của các linh mục tu sĩ”.[6]

3.2. Lạc quan và vui tươi

Một trong những đặc điểm nổi bật của cha Guerrino Luvisotto là tính thực tế, vui vẻ, lạc quan. Hình ảnh của cha Guerrino Luvisotto, một người to lớn, khoẻ mạnh với bộ râu đáng kính và chiếc áo dòng trắng lúc nào cũng cần mẫn làm việc không ngại mệt mỏi, vẫn còn ghi đậm nơi tâm trí nhiều học sinh có may mắn sống với ngài, trong số đó có người viết bài này.

Cha Guerrino Luvisotto không giỏi tiếng Việt như cha Anrê Majcen, hoặc như cha Attilio Stra, nhưng tình cha và lòng nhiệt thành của ngài được các học sinh và người đời thương mến. Chúng tôi không bao giờ quên những câu nhắn nhủ đầy tình cha và lòng ân cần như: “Học sinh, bamboo, phó mát, ta kà ping, ta kà pung” (học sinh ăn cơm xong, ném phó mát ra ngoài gốc tre, chúng con thật lung tung, phải cố gắng đàng hoàng hơn).

 “Bonté, Bontà, bụng tốt, tí chuột như nhau cả, phải không các con” (tiếng Pháp nói “La bonté”, tiếng Ý nói “La bontà”, tiếng Việt nói “bụng tốt”, tất cả đều có giọng nói giống nhau và ý như nhau cả chứ các con, những học sinh bé nhỏ của cha?) .

Khi biến cố 1975 xảy đến, mọi người lo âu, các vị truyền giáo được lệnh rời khỏi Việt Nam. Khi mọi người quy tụ để chia tay lên đường, cha Guerrino Luvisotto không quên pha những câu hài hước “Tí Chuột” (“Ôi những con chuột nhắt đang giỡn chơi kìa”), để làm nhẹ bớt sức căng thẳng của mọi người.

3.3. Tấm lòng quảng đại

Cha Guerrino Luvisotto luôn quan tâm đến mọi người. Khả năng nói tiếng Anh của ngài không tốt, và những khi đi xin đồ Mỹ để giúp học sinh và người nghèo, theo như những người quen kể lại, đó là thứ tiếng Anh tốt nhất mà ngài có thể nói, nhưng những người lính Mỹ không hiểu và luôn hỏi nhau: “Cái ông cha này nói cái gì nhỉ, mình chẳng hiểu được”. Thế nên nhiều lần để cắt ngắn câu chuyện, vị chỉ huy nói cho cấp dưới của mình rằng cứ cho ông linh mục ấy tất cả những gì ông muốn.

Mối quan tâm của cha cha Guerrino Luvisotto không chỉ dành cho các học sinh và hội viên Salêdiêng, ngài còn để ý giúp đỡ những người nghèo chung quanh. Cha Anrê Majcen gọi ngài là “người ăn xin cho những người nghèo”. Biến cố chiến tranh tết Mậu Thân 1968, làm nhiều người phải di tản vào trong các cộng đoàn Don Bosco ở Thủ Đức và Gò Vấp. Thời gian đó, cha Guerrino Luvisotto cùng với cha Attilio Stra sắp xếp trật tự nhà cửa, cung cấp lương thực như gạo, dầu ăn cho những người lánh nạn trong hoàn cảnh đó.

Niềm vui của cha Guerrino Luvisotto chính là dành tấm của ngài cho tất cả mọi người. Ngài nhìn thấy nhu cầu của người khác, đặc biệt là của hội viên, của tập sinh, chăm sóc anh em một cách tốt nhất. Ngài là người cha tốt lành của các cựu học sinh đi lính và của dân chúng nghèo khổ, cũng như của các thân nhân của các đệ tử.

Tóm kết

Để kết thúc bài viết vắn tắt về một trong những vị truyền giáo nổi bật và được quý mến này, không gì giá trị và ý nghĩa hơn bằng chính những lời của cha Anrê Majcen nói về cha Guerrino Luvisotto như sau:

 “Cha Guerrino Luvisotto với bộ râu đáng kính vẫn là trung tâm của sự chú ý với các bài huấn đức về kinh nguyện của ngài cho đoàn chiên Salêdiêng. Cha Luvisotto, người con đích thực của Mẹ Maria (đó là tên Don Bosco đặt cho những người có ơn gọi muộn) và của Don Bosco, đã thực hiện những lời người ta ca tụng Don Bosco như là có con tim rộng lớn như biển cả mênh mông”.[7]

Xin Chúa cho cha Guerrino Luvisotto rất đáng mến và không thể nào quên, được an nghỉ muôn đời! RIP!

Lm.Giuse Nguyễn Đình Phúc, SDB

—————

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Mario Rassiga (ed.), Lịch Sử Salêdiêng Việt Nam theo vết chân hành trình truyền giáo cha Anrê Majcen (tự thuật của cha Majcen) (Ljubljana 1989), Tp. HCM 2006.

Lm. G.B. Nguyễn Văn Thêm SDB, Lịch sử Don Bosco Việt Nam theo Niên Giám (1952-1971), digital edition, Tp. HCM 2024.

Lm. Đa Minh Phạm Xuân Uyển, Lịch sử Salêdiêng Việt Nam. Tự thuật của cha Anrê Majcen nhà truyền giáo Salêdiêng tại Trung Hoa và tại Việt Nam, Xuân Hiệp, Tp. HCM 2017.

[1] Lm. Đa Minh Phạm Xuân Uyển, Lịch sử Salêdiêng Việt Nam. Tự thuật của cha Anrê Majcen nhà truyền giáo Salêdiêng tại Trung Hoa và tại Việt Nam, Xuân Hiệp, Tp. HCM 2017, 446.

[2] Lm. Đa Minh Phạm Xuân Uyển, Lịch sử Salêdiêng Việt Nam. Tự thuật của cha Anrê Majcen nhà truyền giáo Salêdiêng tại Trung Hoa và tại Việt Nam, 448.

[3] Chrys Sadanha, Tái khám phá đời thánh hiến Salêdiêng, Học Viện Don Bosco, Đà Lạt 2016, 82.

[4] Lm. Đa Minh Phạm Xuân Uyển, Lịch sử Salêdiêng Việt Nam. Tự thuật của cha Anrê Majcen nhà truyền giáo Salêdiêng tại Trung Hoa và tại Việt Nam, 446.

[5] Lm. Đa Minh Phạm Xuân Uyển, Lịch sử Salêdiêng Việt Nam. Tự thuật của cha Anrê Majcen nhà truyền giáo Salêdiêng tại Trung Hoa và tại Việt Nam, 446.

[6] MB XIII, 96.

[7] Lm. Đa Minh Phạm Xuân Uyển, Lịch sử Salêdiêng Việt Nam. Tự thuật của cha Anrê Majcen nhà truyền giáo Salêdiêng tại Trung Hoa và tại Việt Nam, 451.

Visited 29 times, 1 visit(s) today