HỒNG Y ANTONIO MARÍA JAVIERRE ORTAS (1921-2007) – VỊ HỒNG Y THỨ 8 CỦA GIA ĐÌNH SALÊDIÊNG

(ANS – Roma) –  Năm 1988, sau ba năm Mật Nghị, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, tiếp tục trao “mũ đỏ” cho vị tu sĩ Salêdiêng người Tây Ban Nha, Antonio María Javierre Ortas. Ngài là người con thứ 8 của Don Bosco được phong Hồng Y. Ngài là một học giả vĩ đại, giáo sư, triết gia và là người thúc đẩy đối thoại đại kết.

Đức Hồng Y Antonio María Javierre Ortás sinh ngày 21 tháng 2 năm 1921 ở Siétamo, tỉnh Huesca, Tây Ban Nha. Sau khi hoàn thành chương trình học tiểu học và trung học ở Huesca, Zaragoza và Barcelona, ​​​​ngài gia nhập tập viện dòng Salêdiêng ở Gerona năm 1939. Ngài khấn lần đầu ngày 11 tháng 9 năm 1940. Ngài học triết học ở Gerona, Barcelona và Salamanca, học sư phạm giáo dục ở Gerona và Santander, và học thần học ở Salamanca, Rome và ở Bỉ. Ngài khấn trọn đời ngày 6 tháng 1 năm 1946 tại Salamanca và được thụ phong linh mục vào ngày 24 tháng 4 năm 1949 cũng tại thành phố này.

Ngài muốn noi gương Don Bosco sống ơn gọi Salêdiêng của mình khi làm việc trực tiếp với giới trẻ tại các vùng đất truyền giáo, nhưng Chúa Quan Phòng đã kêu gọi ngài thực hiện các nhiệm vụ khác. Vì vậy, ngài mục vụ trong đại học và trong Giáo triều Rôma. Tuy nhiên, ngài luôn quan tâm đến đời sống thiêng liêng trong lĩnh vực thần học và rộng hơn là trong lĩnh vực văn hóa. Ngài đứng đầu các nhóm giáo viên, tu sĩ cũng như làm tuyên úy cho sinh viên đại học.

Sau khi lấy bằng tiến sĩ Thần học, ngài làm giáo sư Thần học Chuyên biệt tại Đại học Giáo hoàng Salêdiêng Athenaeum ở Turin từ năm 1951 đến năm 1976.

Ngài được chọn làm vị đại diện trong hàng Giám mục Tây Ban Nha như là một chuyên gia để tham dự Công đồng Vatican II. Ngài còn là cố vấn của Ban Thư ký Hiệp hội các Kitô hữu. Trong ba năm, ngài là thành viên của ủy ban “Đức tin và Hiến pháp” trong ban cố vấn Đại kết các Giáo hội. Ngài giữ nhiều chức vụ khác nhau trong ba hội nghị thế giới cùng một Hội đồng, được tổ chức tại New Delhi, Uppsala và Nairobi. Ngoài ra, ngài còn tham gia một số hội nghị về “Đức tin và Hiến Pháp”, “Giáo hội và Xã hội” được tổ chức tại Geneva. Cuối cùng, ngài phát biểu tại các cuộc họp của Ủy ban Trung ương Hội đồng Đại kết các Giáo hội ở París, Ginebra, Utrecht y Heraclión.

Ngài cũng giữ chức vụ Trưởng khoa Thần học của trường Đại học Salêdiêng Ateneo từ 1959 đến 1971 và là Hiệu trưởng xuất sắc từ 1971 đến 1974. Trong những năm làm hiệu trưởng, học viện Giáo hoàng Salêdiêng Ateneo (PAS) đã được nâng lên hàng Đại học Giáo hoàng Salêdiêng (UPS), có trụ sở tại Roma.

Trong những năm này, ngài dành nhiều thời gian cho việc giảng dạy về Thần Học Tín Lý và nghiên cứu về Hội thảo Đại kết. Ngài được mời giảng dạy tại nhiều trường đại học ở Roma và các thành phố khác. Hơn nữa, ngài còn là người sáng lập va cũng là tổng thư ký của “Hội nghị chuyên đề” về Thần học căn bản của Leuven và Gazzada.

Vào ngày 20 tháng 5 năm 1976, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã bổ nhiệm ngài làm Giám mục hiệu tòa của Meta, giữ chức vụ Tổng Thư ký Thánh bộ Giáo dục Công giáo. Và trong số những người đồng thánh hiến cùng với ngài có Đức Tổng Giám mục Rosalio José Castillo Lara, người mà sau này cũng được phong Hồng Y chung với ngài.

Tinh thần Salêdiêng của ngài cũng được thể hiện trong việc lựa chọn huy hiệu giám mục, một biểu tượng trong Giấc mơ Hai trụ cột của Don Bosco. Thực vậy, ngài có tình yêu lớn lao dành cho Đức Mẹ Phù Hộ các Giáo hữu và Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể luôn tỏa sáng trong các tác phẩm và hành động của ngài (“Mọi thứ đều bị thu hút về trọng tâm này”, ngài viết một trong những bức thư gửi Giáo hoàng Gioan Phaolo II).

Huy hiệu của Giám mục Antonio María Javierre Ortás: Ego Vobiscum Sum: Thầy ở cùng anh em. Hình được tải:https://commons.wikimedia.org/wiki/File:Escudo_de_Antonio_Mar%C3%ADa_Javierre_Ort%C3%A1s.svg

Trong Giáo triều Rôma, ngài đã cống hiến những kiến ​​thức và kinh nghiệm của mình cho nhiều tổ chức. Ngài phổ biến thần học và mục vụ trong thế giới văn hóa, đặc biệt thông qua các nhóm giáo viên và tu sĩ dấn thân trong lĩnh vực giáo dục, với tư cách là tuyên úy của các sinh viên đại học.

Ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong làm Hồng Y vào ngày 28 tháng 6 năm 1988, và Santa Maria Liberatrice ở Monte Testaccio được chỉ định làm nhà thờ chính tòa ở Rôma, và giao cho các tu sĩ Salêdiêng chăm lo về mục vụ.

Vào ngày 1 tháng 7 năm 1988, ngài được bổ nhiệm làm lưu trữ viên của Cơ quan Lưu trữ Cơ mật Vatican và làm thủ thư của Thư viện Vatican. Ngài giữ các chức vụ này cho đến ngày 24 tháng 1 năm 1992, khi ngài được bổ nhiệm làm trưởng ban Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích. Ngài đã thực hiện công việc này cho đến ngày 21 tháng 6 năm 1996, Tòa Thánh chấp thuận đơn về hưu của ngài, vì lý do tuổi tác. Đức Bênêđíctô XVI đã nói về ngài “không bao giờ được bỏ rơi cầu nguyện.”

Ngài bị bệnh và kiệt sức vì điều trị, ngài qua đời vì cơn đau tim vào rạng sáng ngày 1 tháng 2 năm 2007, chỉ vài giờ sau khi long trọng cử hành thánh lễ kính Thánh Gioan Bosco. Tang lễ do Đức Thánh Cha chủ tế tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, sau đó ngài được an táng trong hầm mộ Thánh Callisto.

Nguồn: https://www.infoans.org/es/secciones/noticias/item/18965-rmg-redescubriendo-a-los-hijos-de-don-bosco-que-llegaron-a-cardenales-antonio-maria-javierre-ortas-1921-2007 

Chuyển ngữ: Ban Truyền Thông SDB Việt Nam

Visited 92 times, 1 visit(s) today