Hơn 2.000 năm trước đây, Đức Giê-su đã đến dòng sông Gio-đan để lãnh nhận Phép Rửa của Gio-an Tẩy Giả (Mt 3,13). Khi lãnh nhận xong, Đức Giê-su lên khỏi nước. Lúc ấy, trời mở ra và Thánh Thần Thiên Chúa ngự xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu (Mt 3,16-17). Các sách Tin Mừng Nhất Lãm đều nói tới biến cố này (Mc 1,9-11; Lc 3,21-22).
Ngay sau khi nơi này được các nhà khảo cổ Kinh Thánh khám phá ra, các du khách đã tuốn về để kính viếng nơi này.
1. Lịch Sử
Thiên Chúa đã ban cho miền đất Gio-đan nhiều địa điểm rất đặc biệt. Miền bắc của đất nước này tự hào vì là quê hương của tiên tri Ê-li-a, rồi những khu vực miền bắc và miền trung của đất nước cũng hãnh diện vì Đức Giê-su đã rao giảng và làm nhiều phép lạ tại đó. Miền nam cũng hãnh diện vì Gio-an Tẩy giả đã chịu trảm tại lâu đài “Mekawer”, một lâu đài ở miền nam Madaba. Còn tại sông Gio-đan, Gioan Tẩy Giả đã làm phép rửa cho Đức Giê-su và cũng tại đây, Ngài đã gặp 5 người môn đệ, bao gồm cả Phê-rô. Cũng từ nơi đây, Đức Giê-su đã khởi sự sứ vụ rao giảng Nước Thiên Chúa.
Gio-an Tẩy Giả là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước. Ông đến Bê-ta-ni-a (Bayt ‘Anya), bên kia sông Gio-đan (Ga 1,28) để thực thi sứ mệnh dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Ong sống tại một hang động gần suối “Saphsaphas” (ngày nay là thung lũng Kharrar). Thánh Kinh nói rằng dân chúng từ Giê-ru-sa-lem, Giu-đê-a và khắp vùng phụ cận của Gio-đan, đã tuốn đến với Gio-an Tẩy Giả. Tại sông Gio-đan, ông đã mời gọi mọi người sám hối và làm phép rửa cho họ. Phép Rửa của Gio-an là biểu trưng cho sự sám hối và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Các người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem đã sai một số Luật sĩ và người Pha-ri-siêu đến để chất vấn Gioan, và Gio-an trả lời họ: “Tôi không phải là Đấng Ki-tô. Tôi chỉ là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi” (Ga 1,24)
Thưở còn sinh tiền, nơi Gio-an làm phép rửa được nhiều người tuốn đến. Sau khi ngài qua đời, nhiều đồ đệ của Ngài vẫn tiếp tục ở lại và sống tại khu vực này. Tại đây, một số nhà thờ đã được xây dựng gần nơi Gio-an làm phép rửa, các thày tu đến sống tại các hang động, các đoàn hành hương đến kính viếng.
Truyền thống này tiếp tục cho đến khoảng thế kỷ 14. Sau thời Thập Tự Chinh suy tàn, nơi này bị lãng quên và các bộ tộc địa phương đã giành quyền quản trị.
Đến thế kỷ 20: Với Thế chiến I, sự sụp đổ của đế quốc Ottoman, Thế chiến II, sự xung đột và cuộc chiến giữa người Palestine và Israel vào năm 1948, 1967 và 1973 đã làm cho khu vực này trở thành khu vực cấm lui tới, một nơi được gài đặt các loại thuốc nổ, mìn…Sau hòa ước 1994, các bãi mìn tại khu vực Đức Giê-su chịu phép rửa mới được giải tỏa.
2. Cuộc Gặp gỡ ngẫu nhiên giữa Hoàng Tử và Thày Tu
Trong một lần du hành một mình đến núi Nebo, HRH Hoàng tử Ghazi bin Muahammad của đất nước Gio-đan đã gặp một nhà khảo cổ và cũng là một linh mục, cha Piccirillo. Cha đã giải thích cho Hoàng tử Ghazi về ý nghĩa của nơi Đức Giê-su Chịu Phép Rửa, và khả năng tìm ra chỗ đó, vì hiệp ước hòa bình đã được ký kết. Hoàng tử đã dàn xếp với quân đội để đến thăm nơi đó. Trong chuyến thăm viếng, họ tìm thấy những di tích của một ngôi nhà thờ. Thế cũng đủ để Hoàng tử ra lệnh cho khai quật nơi này. Một toán chuyên viên khảo cổ đã được gởi tới. Họ đã khám phá ra những bình gốm sứ, các hang động, hình mosaic, các đá cẩm thạch. Đa số những thứ này tìm được trên một ngọn đồi nhỏ mà dân địa phương gọi là “Ngọn đồi của Ê-li-a”. Tiếp tục khai quật, các nhà khảo cổ tìm được di tích của một 3 hồ lớn có từ thời La Mã. Họ cũng tìm thấy một hệ thống nước, và cả di tích của một đan viện lớn được xây dựng từ thế kỷ thứ 5 do một thày tu có tên là Rhotorius.
3. Những ngôi Nhà Thờ được xây dựng để tưởng niệm việc Đức Giê-su chịu Phép rửa
Tại một nơi gần sông Gio-đan, người ta đã tìm thấy những di tích mosaic, và như thế có tổng cộng 5 ngôi nhà thờ khác nhau được xây dựng vào những thời điểm khác nhau. Tại sao những ngôi nhà thờ này được xây dựng trên cùng một khu vực vào 5 thời điểm khác nhau? Phải chăng những ngôi nhà thờ này được xây dựng đúng như các tài liệu ghi chép lại để lại? Đây là những vấn nạn vẫn còn chờ đợi câu trả lời rõ ràng hơn.
Ở phía đông của sông Gio-đan, cách phía bắc của biển chết khoảng 9 cây số, các nhà khảo cổ đã khám phá ra những di tích của ngôi nhà thờ Byzantine được xây dựng từ thời Hoàng đế Anastasius (491-518 AD). Ngôi nhà thờ này được xây dựng trên bờ phía đông của sông Gio-đan để kính nhớ thánh Gioan Tẩy Giả.
Vào thế kỷ thứ 6 năm 530 sau công nguyên, Theodosius đã viết” khoảng 5 dặm về phía bắc của Biển Chết, tại nơi Đức Giê-su chịu phép rửa, có một cột trụ trên đó đặt một cây thập tự bằng sắt. Tại đó cũng có một ngôi nhà thờ kính thánh Gio-an Tẩy Giả do Hoàng đế Anastasius xây dựng: ngôi nhà thờ cao sừng sững, được xây trên những phòng lớn, ngay trên giòng sông Gio-đan chảy bên dưới.” Cho dầu cây cột trụ này ghi dấu nơi Đức Giê-su chịu phép rửa vẫn chưa được tìm ra, nhưng những gì mà các nhà khảo cổ và khoa kiến trúc tìm thấy cũng phù hợp với mô tả của Theodosius.
Bốn mươi năm sau đó, tức năm 570 sau công nguyên, thánh tử đạo Antonius của Piacenza viết rằng: “Chúng tôi cử hành lễ Hiển Linh ngay bên bờ sông nơi Đức Giê-su chịu phép rửa và buổi chiều tối hôm đó thật tuyệt diệu. Tại đó cũng có một cái gò đất nhỏ có hàng rào chắn bao quanh, và dòng sông chia nhánh ở đó,… những bậc thang bằng đá cẩm thạch dẫn xuống dòng nước,… vị linh mục đi xuống dòng sông.” Những bậc thang bằng cẩm thạch mới đây đã được khám phá và bảo tồn trùng hợp với những gì được mô tả hơn 1.400 năm trước.
Một trăm năm sau đó, Arculfus của Pháp (năm 670 sau công nguyên) cũng cho biết những chi tiết quan trọng: “… Sát bên bờ sông là một ngôi nhà thờ nhỏ hình vuông, và như người ta nói, nó được xây dựng ngay trên chỗ mà Đức Giê-su cởi bỏ y phục trong lúc Ngài xuống sông để chịu phép rửa. Nhà thờ được xây nổi trên 4 trụ cầu đá, bên trên dòng nước, còn nước chảy ở bên dưới”. Ngày nay, người ta có thể thấy 2 trụ cầu đá ở phía bắc, và 2 trụ cầu đá ở phía nam. Vì thế, hẳn đây là một hồ phép rửa lớn có dạng hình chữ thập, nơi các khách hành hương có thể xuống hồ qua các bậc thềm bằng cẩm thạch để chịu phép rửa.
Những di tích quan trọng khác cũng được tìm thấy tại khu vực này, đó là 2 đền thờ, được xây dựng một phần trên di tích của Nhà Thờ Thánh Gio-an Tẩy Giả, được thiết kế giống nhau và nối với nhau qua những bậc thềm bằng cẩm thạch về phía đông, nối 2 đền thờ này với hồ phép rửa hình chữ thập. Trên đó ngôi Nhà Thờ Y Phục được xây dựng.
Epiphanius (năm 750-800 sau công nguyên) có nói đến một ngôi nhà thờ lớn (Nhà Thờ Ba Ngôi) được xây dựng trên bờ sông, cách đan viện Gio-an Tẩy Giả (trên ngọn đồi Ê-li-a) khoảng 1 dăm về phía tây.
Sau khi 4 ngôi nhà thờ trên bị phá hủy, một ngôi nhà nguyện được xây dựng trên di tích của cầu trụ đá về phía tây bắc. Viện phụ Đa-ni-en (1106-1107 sau công nguyên) đã viết: “Cách xa nơi Đức Giê-su chịu phép rửa ở sông Gio-đan khoảng chừng ném một hòn đá nhỏ, người ta đã xây dựng một ngôi nhà nguyện nhỏ với một bàn thờ. Ngôi nhà nguyện nhỏ này ghi dấu nơi mà Thánh Gio-an Tẩy Giả đã làm phép rửa cho Đức Giê-su Ki-tô”.
Trích CĐ Don Bosco số 31