Bài bình giải của cha Sala về sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô gởi cho TTN28.

“HÃY MƠ… VÀ LÀM DÂN CHÚNG MƠ!”

Sứ điệp của Đức Giáo hoàng Phanxicô gởi cho TTN28: đọc theo  nhãn quan sư phạm và mục vụ

ROSSANO SALA, SDB.

Roma, ngày 24 tháng 4, 2020

Một cách nào đó như Công đồng Vatican I, ta sẽ nhớ đến TTN28 như một Tu nghị bị gián đoạn. Không phải vì đoàn quân Ý tiến vào Roma, nhưng do một vi-rut vô hình và hiếu chiến mau chóng lan nhanh trên thế giới và ngăn chặn mọi sự.

Ngày thứ bảy 16 tháng Hai, chúng tôi hăng hái khởi sự [TTN28] và theo chương trình ngày thứ bảy mồng 4 tháng Tư, chúng tôi phải kết thúc. Trái lại, thứ bảy ngày 14 tháng Ba, chính xác là sau 4 tuần làm việc, chúng tôi phải ngưng lại thời khắc ân sủng đẹp đẽ này. Chúng tôi có thời gian học hỏi bài tường trình của Bề Trên Cả về tình trạng Tu hội; chúng tôi có thời gian sống một số thời khắc linh đạo khởi đầu và làm việc trên ý tưởng chủ đạo một và hai của chủ đề Tu Nghị đó. Chúng tôi kết thúc với việc bầu chọn Ban Tổng Cố vấn mới cho nhiệm kỳ lục niên 2020-2026.

Tựa như đoàn quân Israel sau khi Absalon chết (x. 2 Sm 19:4) chúng tôi đã về nhà cách lén lút một chút,  – thực ra một số chúng tôi đã chưa được về nhà, bởi vì họ vẫn bị kẹt ở Valdocco – mà không có Tài liệu chung cục vốn làm cho chúng tôi có thể mang đến việc chia sẻ một loại “lộ trình” cho sáu năm tới. Người ta mới chỉ trình bày cho hội nghị bản nháp đầu tiên của ý tưởng chủ đạo thứ nhất; một cách cốt yếu người ta chấp nhận nó xét như toàn thể, và công việc của các ủy ban trên ý tưởng chủ đạo thứ hai được thực hiện. Căn cứ vào những hoàn cảnh, các thành viên của TTN28 trao cho Ban Tổng Cố Vấn trách vụ làm việc lại điều đã được đưa ra, qua một cuộc bỏ phiếu chính thức.

Đang khi chờ đợi điều các bề trên sẽ nói và cống hiến cho chúng ta, chúng tôi để lại gì từ kinh nghiệm này? Có lẽ chỉ một điều, Sứ điệp của Đức Giáo hoàng Phanxicô gởi cho TTN28. Tôi tin rằng bản văn này là một lộ trình quý báu, bởi vì nó là một chương trình nhỏ để chúng ta canh tân đoàn sủng. Đọc và suy niệm Sứ điệp ấy, chúng ta hiểu rằng Đức Thánh Cha không chỉ yêu thương chúng ta, nhưng còn muốn thiện ích cho chúng ta; ngài quan tâm sâu xa đến Tu hội chúng ta. Mọi người đã hiểu điều ngài viết cho chúng ta không chỉ là một diễn từ theo hoàn cảnh, nhưng là một lời xuất phát từ cõi lòng của người cha và xin mọi người khởi sự lại từ Don Bosco, khi mời chúng ta ý thức điều mà ngài lặp đi lặp lại “sự chọn lựa Valdocco”.

Vì lẽ này tôi nghĩ cống hiến cho  mọi người một lời bình giải ngắn mang tính sư phạm-mục vụ về Sứ điệp gởi cho TTN28, mà trước hết chúng tôi phải coi là một tặng phẩm đến từ một người bạn, quả là thích hợp. Vì thế, điều viết sau đây muốn mời gọi ta đừng bỏ quên những lời mà Đấng Kế vị Thánh Phêrô ngỏ cho Tu hội chúng ta.

Một ghi chú chuyên môn để đọc bản văn. Bản văn sau đây cố tình mang tính “suy niệm”. Tôi tránh những quy chiếu tới những văn kiện Salêdiêng và Giáo hội khác – nhiều trích dẫn mà độc giả gặp thấy giữa các ngoặc kép chỉ quy chiếu tới Sứ điệp của Đức Giáo hoàng Phanxicô gởi cho TTN28 mà thôi – để cống hiến một suy tư huynh đệ giản đơn vốn giúp cho từng Salêdiêng, từng cộng thể tu sĩ và cộng đoàn giáo dục mục vụ thu lượm được sự giàu có trong những lời mà Đức Thánh Cha ban cho chúng ta. Nhằm mục tiêu này, vào cuối mỗi điểm, tôi đề ra một vài câu hỏi để cá nhân hay cộng thể đào sâu thêm.

Đức Phanxicô mời chúng ta trở lại những bước [chọn lựa] của Don Bosco

Sứ điệp được Đức Phanxicô gởi cho TTN28 đến từ trái tim mục tử của ngài. Khi đọc liền một lúc, rõ ràng nó chẳng có chút gì trang trọng hay lạnh lùng, nhưng mọi sự đều cảm thấy được sự thân thiện độc đáo của đoàn sủng Salêdiêng. Không có gì chung chung hết, song mọi sự đều xác đáng với đoàn sủng chúng ta. Nếu chúng ta so sánh nó với những sứ điệp khác được viết cho những Tu hội và hội dòng khác trong những dịp Tổng Tu Nghị của họ, chúng ta thấy rằng ở đây chúng ta có một sứ điệp cá vị, được tư duy và ao ước cho chúng ta vào thời khắc này trong lịch sử. Chúng ta biết rằng nhiều lần Đức Phanxicô trao lại một bản văn viết chính thức và rồi nói từ cõi lòng. Chúng tôi không biết làm thế nào ta sắp xếp để có được buổi gặp gỡ theo chương trình cho chiều ngày thứ sáu, mồng 6 tháng Ba – khi Đức Thánh Cha đã hoạch định để ở giữa chúng ta tại Turin, trong một cử chỉ tế nhị, chú tâm và gần gũi tuyệt vời. Tôi tưởng tượng ngài đã đọc sứ điệp ấy với một số bình giải cá nhân. Có lẽ ngài sẽ không nói nhiều điều khác, bởi vì trong Sứ điệp gởi cho TTN28 này ngài diễn đạt phong thái mục vụ của mình đầy đủ rồi: mối quan tâm của ngài cho giới trẻ, cách riêng các em nghèo nhất; sự căng thẳng của ngài hầu các tu sĩ một lần nữa có thể trở nên những ngôn sứ cho Giáo hội và cho thế giới; tình bạn đặc biệt của ngài với con cái của Don Bosco.

Tôi thích nghĩ rằng sứ điệp này đã cụ thể hóa trong Thượng Hội đồng Giám mục về giới trẻ: từ tháng Mười 2016, khi chủ đề của Thượng Hội Đồng ấy được công khai (“Giới trẻ, đức tin và phân định ơn gọi”) cho đến 25 tháng Ba 2019 (khi Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Christus vivit được ngài ký) Giáo hội hoàn vũ cố gắng đảm trách thế giới người trẻ cách nghiêm chỉnh trong ánh sáng Tin mừng và thời đại thay đổi trong đó chúng ta bị chìm ngập. Đó là một Thượng Hội đồng Giám mục “Salêdiêng”, bởi vì toàn Giáo hội quan tâm đến điều chúng ta chăm lo hơn bất cứ cái gì khác: giới trẻ!

Nếu bây giờ chúng ta bắt đầu nhìn vào năm điểm của Sứ điệp gởi cho TTN28, chúng ta có thể nói rằng lý lẽ nền tảng chạy xuyên suốt là lời mời gọi Tu hội làm một “chọn lựa Valdocco” thật sự. Nó lập tức tỏ lộ rằng đây là chủ đề thống trị toàn bản văn, được biến cách khác nhau. Chắc chắn, Đức Giáo hoàng nương theo gợi ý từ sự kiện là TTN28 xảy ra ở Valdocco, “nhà mẹ” của Tu hội và là nơi thai nghén đoàn sủng. Nó chính là một đất mẹ, ở đó tinh thần Salêdiêng hình thành. Nhưng nó không chỉ là một chuyện thuộc về những kỷ niệm lãng mạn hay một chọn lựa tiện ích: đối với Đức Phanxicô, ở trong (sống trong) Valdocco trở thành một ước ao: ước ao trở về tận nguồn của đoàn sủng đó. Chúng ta biết rằng nếu chúng ta muốn kín được nước tinh tuyền chúng ta phải lần về lên tới tận nguồn, ở đó nước trực tiếp chảy tuôn ra từ tảng đá. Ở Valdocco, một cách biểu tượng, điều này xảy ra cách chính xác! Chúng ta trở lại tận nguồn, ở đó chúng ta có thể tìm được sự sung mãn và tinh ròng của đoàn sủng Salêdiêng. Tiên vàn và trên hết, “chọn lựa Valdocco” có nghĩa là thế đấy.

Vì vậy, đối với tất cả chúng ta, con cái Don Bosco, Valdocco là một tặng phẩm và một thách đố. Chúng ta không biết TTN28 sẽ kết thúc ra sao nếu không có sự cấp bách của vi-rut Corona vốn ngăn trở chúng tôi hoàn tất TTN ấy; nhưng chúng tôi biết bốn tuần chúng tôi cùng sống trong nhà của Don Bosco đã tiến hành ra sao: chúng tôi trân trọng phẩm chất phụng vụ và thân tình của những buổi cử hành long trọng trong Vương cung Thánh đường Mẹ Phù hộ; hằng ngày chúng tôi đã sống cầu nguyện trong những phòng khác nhau được Don Bosco xây dựng và thường tới lui; chúng tôi cầu nguyện hằng ngày trước người Cha thân yêu của chúng ta, xin ngài được luôn trung thành sáng tạo với đoàn sủng. Mọi sự tại Valdocco nói về sự thánh thiện Salêdiêng và được ngập chìm trong tất cả điều này thật sự là một kinh nghiệm tốt đẹp. Tất cả các thành viên Tu nghị đều cảm nhận rằng sống TTN này tại Valdocco quả là một quà tặng và ơn sủng rất đặc biệt.

Tuy nhiên, “chọn lựa Valdocco” không chỉ là chiêm niệm một lịch sử quá khứ nhưng là sức mạnh để đối diện với đời sống hiện tại của thế giới, Giáo hội và Tu hội. Nó có nghĩa là cố gắng hiểu cách thức để ngày nay làm thành cụ thể cái phong thái hành động vốn đặc trưng Don Bosco tận bên trong và đã thấy được hiện thực lần đầu tiên và trở thành khuôn mẫu ở Valdocco. Chẳng ai đi tới Valdocco để trở lại quá khứ, nhưng mọi người làm thế với ý định là tìm kiếm những khởi hứng đúng đắn để sống tới mức tròn đầy những thách đố ngày nay và chuẩn bị tương lai của đoàn sủng đó, vì thâm tín rằng thời chúng ta [đang sống] không tốt hơn cũng chẳng xấu hơn thời mà Don Bosco sống, nhưng đơn giản, nó thật khác nhau. Vì vậy, lời mời đi vào “chọn lựa Valdocco” có nghĩa là gặp gỡ Don Bosco để được ơn soi sáng (giác ngộ) về cách thức sống đoàn sủng ấy ngày nay: để rút lấy từ đấng sáng lập thánh thiện chúng ta những  nguyên lý nền tảng, phong thái của ngài, những trực giác độc đáo, năng động lực trọng yếu của ngài. Nhưng trong bối cảnh chúng ta.

Cụ thể, Sứ điệp gởi cho TTN28 bao gồm 5 điểm trong đó Đức Giáo hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta “luôn ở lại trong sự sáng tạo trung thành với căn tính Salêdiêng của anh em.” Nếu chúng ta nhìn vào chúng cách tổng quát, chúng ta có thể thoáng thấy một lược đồ rất thú vị, vốn tập trung vào chủ đề hiện diện và sống từ một sự quy chiếu đan xen liên lỷ và tự nhiên giữa khoa sư phạm và tác vụ mục vụ:

  1. Làm phấn chấn lại tặng phẩm anh em đã nhận được.
  2. “Chọn lựa Valdocco” và tặng phẩm giới trẻ.
  3. “Chọn lựa Valdocco” và đặc sủng hiện diện.

            B1. “Chọn lựa Valdocco” trong nhiều ngôn ngữ đa dạng

A1. “Chọn lựa Valdocco” và khả năng mơ ước

Chúng tôi hãy cố gắng phân tích từng điểm, cố gắng nắm bắt những điểm trọng tâm được Đức Giáo hoàng Phanxicô bàn đến. Chúng tôi có thể nói rằng chúng là 5 đòn bẩy để canh tân. Chúng lấy gợi ý từ hai nguồn chính: một đàng hành trình thượng hội đồng (hay: đồng nghị, synodal) và đàng khác, “dụng cụ làm việc” của TTN28. Sự gặp gỡ phong phú của hai nguồn này sinh ra 5 điểm của Sứ điệp gởi cho TTN28.

Sự phân định, cội rễ của canh tân mục vụ

Điểm thứ nhất của Sứ điệp gởi cho TTN28 mời gọi các Salêdiêng làm phấn chấn lại tặng phẩm họ nhận được. Mọi đoàn sủng không phải là một cái gì chết khô phải được giữ kỹ trong một nghĩa trang, nhưng là ngọn lửa hằng sống vốn phải được liên lỷ sinh động hầu nó có thể soi sáng và hun nóng. Đức Phanxicô xác quyết rằng “sống trung thành với đoàn sủng là một cái gì phong phú và kích thích hơn là chỉ đơn giản bỏ đi, xây dựng lại hay thích ứng lại các nhà hay các hoạt động; nó can dự đến một thay đổi não trạng khi đối diện với sứ mệnh phải được hoàn thành.” Không ai trong chúng ta chỉ phải làm lại điều Don Bosco đã làm, hầu như theo một hình thức từng chữ và thụ động. Điều này sẽ là đi theo một luận lý là “sự trung thành lặp lại”, tiêu biểu của những máy photo; trái lại, “sự trung thành sáng tạo” của Thánh Thần, vốn liên lỷ làm mọi sự nên mới. Cái sau (sự trung thành sáng tạo) luôn tránh hai cực đoan “không thích ứng văn hóa theo mốt (thời trang), hoặc ẩn náu trong một quá khứ anh hùng nhưng đã “thoát xác” (embodied) rồi – và đi vào nhịp điệu phân định vốn chỉ có thể giúp chúng ta làm phấn chấn lại tặng phẩm đoàn sủng mà chúng ta nhận được (x. 2 Tm 1:6-7).

Chúng ta được kêu gọi làm cho tinh thần của Don Bosco thành của chính mình để giải thích lại nó trong chính bối cảnh được canh tân nơi đó chúng ta sống và làm việc. Từ quan điểm này, nhất thiết phải biết làm thế nào để phân biệt cách thích đáng giữa “sứ mệnh của Giáo hội”, vốn luôn luôn là như nhau trong mọi thời đại và cho mọi lãnh thổ, và “sự chăm sóc mục vụ của Giáo hội”, vốn luôn khác nhau trong mọi thời đại và trong những bối cảnh khác nhau. Sứ mệnh Don Bosco chắc chắn là sứ mệnh của chúng ta – “là dấu chỉ và người mang tình yêu Chúa cho giới trẻ”, ta có thể nói tổng hợp như thế – nhưng sự chăm sóc mục vụ tùy thuộc vào nhiều yếu tố mà ngày nay đang thay đổi liên tục và bất ngờ. Chính vì thế Đức Phanxicô bắt đầu điểm thứ nhất này bằng cách nói rằng “nghĩ về hình ảnh người Salêdiêng cho giới trẻ hôm nay hàm ẩn việc chấp nhận rằng chúng ta bị chìm ngập trong một thời khắc đổi thay, với tất cả sự không chắc chắn mà điều này có thể khai sinh. Không ai có thể nói chắc chắn và chính xác (nếu anh em có thể đã từng làm thế) điều gì sẽ xảy ra trong một tương lai gần trên bình diện xã hội, kinh tế, giáo dục và văn hóa.”

Đây là nơi mà nghệ thuật phân định trở  nên hiệu lực, được đâm rễ trong “sự dễ dạy lưỡng diện: dễ dạy đối với giới trẻ và những nhu cầu của chúng và dễ dạy đối với Thần khí và tất cả điều mà Ngài muốn biến đổi”. Như một Tu hội, sớm bao có thể và trong những cách thức khả thể tốt nhất,  chúng ta được gọi để học phân định, chứ không phải trở thành những tu sĩ dòng Tên – thực thế, người ta biết rằng tính nhạy cảm biệt loại này được con cái của thánh Ignatio Loyola mang vào trong Giáo hội và Đức Phanxicô nhiều lần xác quyết rằng trong thời khắc của “thế kỷ đổi thay” này tặng phẩm phân định là một cái gì vốn phải trở thành gia sản của tất cả những thành tố của xã hội và Giáo hội – nhưng để là những Salêdiêng có khả năng nhìn sâu vào những thay đổi đang xảy ra: sự phân định, tiên vàn và trên hết, mời chúng ta “vun trồng một thái độ chiêm niệm, có khả năng nhận diện và phân định những điểm cốt lõi. Điều này sẽ giúp chúng ta đi vào hành trình đó với tinh thần và sự đóng góp riêng của con cái Don Bosco và, như ngài, để phát triển một “cuộc cách mạng văn hóa vững chắc” (Laudato Si, 114). Thái độ chiêm niệm này sẽ cho phép anh em vượt thắng và đi xa hơn những kỳ vọng và chương trình của chính anh em”.

Sự phân định đến từ chiêm niệm. Tại sao? Bởi vì nó là một cái nhìn thiêng liêng, được Thánh Thần sinh động, nó giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa hiện diện và hoạt động trong lịch sử nhân loại. Nó là cái nhìn vốn khởi từ thực tại và tìm ở đó Thần khí hoạt động trong những nhóm người và những vết thương của nhân loại. Đâu là những lời Thiên Chúa kêu nài chúng ta khởi từ thực tại của giới trẻ ngày nay? Thiên Chúa đang đòi chúng ta điều gì xuyên qua tiếng nói của giới trẻ, cách riêng những em nghèo khổ nhất? Chúng ta đáp lại ra sao trước những thách đố đến với chúng ta từ thời đại chúng ta? Đây là những câu hỏi khởi đầu vốn có thể kích hoạt một sự phân định chân chính, vốn luôn bắt đầu từ khả năng là nhận biết cái gì đang xảy ra trong lịch sử qua con mắt của Người Cha, với những tình cảm của Người Con và ánh sáng đến từ Thần khí. Sự phân định không ngừng lại ở chiêm niệm, nhưng dẫn tới hành động, bởi vì nó đi tới việc nhận diện những chọn lựa chính xác và cụ thể để hiện thực vì thiện ích của giới trẻ.

Chính đáng, khi khởi từ thái độ phân định này, “không chút bi quan cũng  không lạc quan, người Salêdiêng của thế kỷ 12 là người đầy hy vọng bởi vì họ biết rằng tâm điểm của mình ở nơi Chúa, Đấng có thể làm mọi sự nên mới (x. Kh 21:5)”. Sự phân định tập trung vào Đức Giêsu, Chúa của thời gian và lịch sử; ngài hiện diện trong cuộc đời giới trẻ và ở tận cội rễ của mọi đổi thay: “Thái độ hy vọng này có khả năng thiết lập và khởi sự những tiến trình giáo dục khác với nền văn hóa đang ưu thắng”. Vì thế, Đức Phanxicô khích lệ chúng ta, “đừng là những người khải thắng hay kẻ phao tin đồn nhảm, song là những người nam nữ vui tươi và hy vọng, không phải là những cỗ máy tự động nhưng là những người thợ; có khả năng “cho thấy những giấc mơ khác mà thế giới này không cống hiến, có khả năng làm chứng cho vẻ đẹp của sự quảng đại, sự phục vụ, sự trong sạch, sự dũng cảm, sự tha thứ và trung thành với ơn gọi của mình; làm chứng cho cầu nguyện, đấu tranh cho công bằng và công ích, yêu mến người nghèo, và cho tình bằng hữu xã hội” (Christus vivit 36).

Khởi từ điểm giới thiệu thứ nhất này, nội dung nền tảng của con đường mà chúng ta được mời gọi cùng nhau bước đi trong bốn điểm sau đây sẽ mở ra. Bởi vì xét cho cùng, tất cả chúng ta phải nhận biết rằng “chọn lựa Valdocco của TTN28 của anh em là một dịp tốt để đối diện với những nguồn mạch và xin Chúa: “Da mihi animas, coetera tolle“”.

Như những cá nhân Salêdiêng, như một cộng thể tu sĩ và như một cộng đoàn giáo dục mục vụ bằng cách nào chúng ta đưa ra hành động những tiến trình phân định chân chính, có khả năng sinh ra những tiến trình khác để ra khỏi vòng luẩn quẩn là “nó đã từng như vậy rồi mà?

 ­­­Can đảm để chính mình chìm ngập vào thực tại và khoa sư phạm của tin tưởng

Điểm thứ hai của Sứ điệp gởi cho TTN28 có tính cách sư phạm cách trang nhã: Chọn lựa Valdocco và tặng phẩm giới trẻ. Ở đây Đức Phanxicô cho thấy rằng ngài là một chuyên gia chân chính về đoàn sủng chúng ta và bí quyết sâu sắc của nó. Chúng ta có thể tóm tắt nó bằng hai cặp từ ngữ: can đảm và tin tưởng.

Trước hết, can đảm đi tới thực tại. Vì hiểu biến cố lịch sử vốn nảy sinh đoàn sủng Salêdiêng, Đức Phanxicô nói rất tế nhị trong một ghi chú rất quý báu được chứa đựng trong Sứ điệp gởi cho TTN28: “Nhờ cha Cafasso khôn ngoan trợ giúp, Don Bosco khám phá mình là ai trong con mắt của những tù nhân trẻ; và những tù nhân ấy khám phá một khuôn mặt mới trong ánh nhìn của Don Bosco. Như thế, họ cùng nhau khám phá giấc mơ của Thiên Chúa, đấng cần những cuộc gặp gỡ này để tỏ lộ chính mình. Don Bosco không khám phá sứ mệnh của mình khi soi gương, nhưng trong nỗi đau là nhìn thấy những người trẻ không có tương lai. Người Salêdiêng của thế kỷ 21 sẽ không khám phá căn tính của chính mình nếu họ không thể đau khổ với “nhiều thanh thiếu niên khỏe mạnh và vạm vỡ, tinh khôn tỉnh táo, song lại ở trong tù chịu dằn vặt và hoàn toàn thiếu thốn của ăn tinh thần và vật chất… nơi chúng biểu thị vẻ chán ghét của quê hương, nỗi hổ thẹn của gia đình” (x. Hồi ký Nguyện xá); và chúng ta có thể thêm: của chính Giáo hội chúng ta”.

Don Bosco không chỉ đối diện với thực tại, khi đứng trước nó. Ngài chìm ngập hoàn toàn trong đó, ngài làm cho đôi tay thành dơ bẩn với thực tại. Nếu chúng ta nghĩ kỹ về điều này, nó chính là luận lý của sự nhập thể, một dấu chỉ của khoa sư phạm thần linh, vốn tiên vàn và trước hết là một chọn lựa để hoàn toàn chia sẻ cuộc sống nhân loại. Nó là việc phá đổ mọi “khoảng cách an toàn”, mọi “bức tường ngăn cách”. Và khi làm thế, chúng ta biết, chúng ta đi vào một vùng nguy hiểm, căng thẳng và sợ hãi. Trong những tháng dịch bệnh này, chúng ta biết rõ điều đó: những ai tiếp cận với những người bị nhiễm bệnh rút cục có nguy cơ bị lây nhiễm. Chúng ta đều rõ biết bao y bác sĩ, linh mục và tu sĩ bỏ mạng khi gần gũi phục vụ họ. Sự gần gũi luôn luôn liều lĩnh; ở gần giới trẻ, nhất là những em nghèo khổ nhất, đòi phải can đảm và yêu mến rất nhiều. Để sớt chia sự bất ổn của chúng, để đi vào thế giới đầy mỏng dòn của chúng, để trở thành bị vứt bỏ với chúng.

Nhưng Don Bosco đã rất can đảm làm điều này; ngài đặt “sự nghiệp giáo sĩ” của mình lâm nguy. Ngài không sợ đi vào thế giới của giới trẻ: “Như Hồi ký Nguyện xá kể cho chúng ta, Nguyện xá Salêdiêng và mọi sự nảy sinh từ đó được sinh ra như một lời đáp trả trước cuộc đời của giới trẻ có một khuôn mặt và một câu chuyện, vốn đặt vị linh mục trẻ đó động lòng thương, không thể còn dửng dưng (lừng khừng) hay án binh bất động trước điều đang xảy ra”. Như Đức Giêsu, Don Bosco không còn dửng dưng hay bất động; Song, đáp lại những tiếng kêu nài của Chúa, ngài tiến vào “hành vi hoán cải thường hằng”, vốn làm cho “toàn cuộc đời ngài và cuộc đời của những kẻ quanh ngài nên liên lụy và rắc rối”.

Chúng ta biết rằng có những chăm sóc mục vụ xa cách và kỷ luật, hay những chăm sóc mục vụ hình thức (giả dối) vốn từ trên cao cúi xuống xem nhẹ người trẻ, và những tác vụ giới trẻ vốn nghĩ về giới trẻ chỉ như những người thụ động nhận lãnh một đề xướng mục vụ được những người lớn quan niệm và hoạch định mà không có chúng. Sự chăm sóc mục vụ Salêdiêng không như thế, bởi nó được sinh từ một chọn lựa sư phạm rất rõ ràng; không chút sai lầm, chúng ta có thể gọi nó là khoa sư phạm của tin tưởng. Nó khởi sự từ một tiền đề rất rõ này: từ xác tín rằng ân sủng cư ngụ trong mọi người trẻ, rằng ngay cả nơi em mà ta coi là không may nhất đều có những tặng phẩm và tài năng, mà mọi nhà giáo dục được gọi để nhìn thấy và lượng giá. Do vậy, chúng ta đi đến đề tài lớn lao là tin tưởng, nghĩa là, sự chắc chắn rằng giới trẻ, trước khi bị thương bởi tội lỗi và những biến cố tiêu cực của đời sống, là con cái của một vị Thiên Chúa luôn yêu thương họ và luôn làm đầy họ với tình yêu và những tặng phẩm của ngài. Đây là điều mà Don Bosco đã học bởi thánh Phanxicô Salê; hơn những người khác trong Giáo hội, thánh nhân đã nhận biết Thiên Chúa tình yêu hiện diện trong mọi sự, ngay cả trong hòn đá bị thải đi. Giống như Đức Giêsu bị những người thợ xây thải đi đã trở thành phiến đá góc tường, thì giới trẻ bị loại đi trở thành đá góc tường của Tu hội Salêdiêng nảy sinh. Giống như Chúa Cha phục hồi Đức Giêsu qua sự Phục sinh, cũng vậy Don Bosco làm cho giới trẻ thành những người vai chính qua sứ mệnh giáo dục của ngài; sứ mệnh ấy trước tiên nhắm phục hồi giới trẻ và làm chúng nên những chủ thể chân chính của sứ mệnh đó.

Đây cũng là lịch sử của chúng ta, không chỉ lịch sử của giới trẻ; chính theo nghĩa này mà Đức Phanxicô khẳng định rằng giới trẻ “như vậy đã giúp Giáo hội gặp lại sứ mệnh của mình”. Đúng là thế. Và ta phải rất mạnh mẽ tái xác quyết điều này, bởi vì sức mạnh ngôn sứ của đoàn sủng Don Bosco nằm ở đây: “Chẳng những không phải là những tác nhân thụ động hay những khán giả của công cuộc truyền giáo, song khởi từ chính điều kiện của chúng – trong nhiều trường hợp là “những người thất học về tôn giáo” và những kẻ thất học về xã hội – chúng lại trở thành những vai chính của toàn tiến trình sáng lập [Tu hội]. Tính chất Salêdiêng được sinh ra chính từ cuộc gặp gỡ này có khả năng khơi dậy những lời ngôn sứ và những tầm nhìn (thị kiến): đón chào, hòa nhập và làm cho những phẩm chất tốt nhất tăng trưởng như một quà tặng cho tha nhân, cách riêng cho những người bị loại ra ngoài lề xã hội, bị bỏ rơi mà chẳng một ai kỳ vọng gì từ họ cả”. Không bao giờ chúng ta có thể quên rằng giới trẻ là những người đồng sáng lập Tu hội Salêdiêng!

Từ sự can đảm để đi tới thực tại và từ khoa sư phạm có uy lực của tin tưởng phát sinh khả năng làm cho mọi người trẻ can dự vào và những người lớn chia sẻ tài năng của họ, để kiến tạo một môi trường trong đó mọi người cảm thấy rằng họ là những chủ thể của sứ mệnh, để khai sinh một hình thức Giáo hội trong đó tất cả hình thức “chủ nghĩa giáo sĩ” bị cấm chỉ: trong tất cả công cuộc chúng ta, “người Salêdiêng sẽ là chuyên viên trong việc mời gọi và khai sinh loại năng động tính này mà không cảm thấy rằng họ là ông chủ”. Đức Giáo hoàng Phanxicô nói thêm: “tìm thấy nơi những người bé nhỏ nhất Vương quốc Thiên Chúa sinh hoa kết trái thật độc đáo không phải là một sự chọn lựa chiến lược, nhưng là một chọn lựa đoàn sủng”.

 Những sự mạo hiểm nào mà chúng ta phải dấn thân vào ngày nay vì giới trẻ? Chúng ta có thực sự tin tưởng các em hay không? Chúng ta có can đảm để mời gọi các em cộng tác vào Sứ mệnh giáo dục mục vụ của chúng ta hay không?

  Sứ mệnh, lõi tủy của ơn gọi và linh hồn của đào luyện

Chọn lựa Valdocco” và đoàn sủng của sự hiện diện. Đây là tựa đề của điểm thứ ba trong Sứ điệp gởi cho TTN28. Theo ý kiến thô thiển của tôi, chúng ta tới đạt trái tim sư phạm và mục vụ của điều mà Đức Giáo hoàng muốn thông giao cho chúng ta. Chúng ta biết, chủ đề cơ bản của TTN28 là về diện mạo của người Salêdiêng: Loại người Salêdiêng nào cho giới trẻ ngày nay? Tại tâm điểm này chúng ta mạnh mẽ đi vào chủ đề ấy, khi tập trung vào mối liên hệ giữa ơn gọi, đào luyện và sứ mệnh. Trong “Dụng cụ Làm việc” của TTN28 – mà chắc chắn Đức Phanxicô có trong tay và nó tóm lược những đóng góp của các Tu Nghị Tỉnh – câu hỏi về mối liên hệ chiến lược giữa đào luyện và sứ mệnh được nêu lên ở những điểm khác nhau, khi xác quyết tính duy nhất thiết yếu [của chúng] và đôi khi cáo giác hai thực tại này thường khó mà được nối kết thích đáng.

Đàng khác, Thượng Hội đồng Giám mục về giới trẻ đã vài lần nhấn mạnh mối liên hệ mật thiết giữa ơn gọi và sứ mệnh, khi nói mạnh rằng ý tưởng ơn gọi không có gì quy chiếu về chính mình cả, song luôn là tiếng gọi tới “sự xuất thần của đời sống”, nghĩa là, đi ra khỏi chính mình để gặp gỡ người khác. Vì lẽ này, mọi người là một sứ mệnh và người ta không được hời hợt nói rằng họ có một sứ mệnh: chính sứ mệnh ở trong trật tự của hữu thể, của căn tính, của mô thức uyên nguyên, chứ không phải của sở hữu, như thể nó là một sự thiện ngoại tại và được sở hữu. Ngay cả khi nói về “Giáo hội đi ra”, chúng ta ám chỉ đến cùng một năng động lực, bởi vì thực thế, như một chủ thể cộng đoàn, Giáo hội sống nhờ cùng một luận lý này: Giáo hội chỉ có thể là chính mình cách sung mãn (tròn đầy) khi đi ra khỏi chính mình! Chúng ta có thể nói cùng một điều như thế cho Tu hội: khi ra khỏi chính mình và đi ra gặp giới trẻ, Tu hội mới thật sự là chính mình; ngược lại, khi đóng kín chính mình để cố gắng sống còn, Tu hội từ khước căn tính mình; căn tính ấy chỉ có thể là truyền giáo tận bên trong mà thôi.

Khởi từ những dấu chỉ đầu tiên này việc sứ mệnh là lõi tủy của ơn gọi và là linh hồn của đào luyện quả là rõ ràng. Đức Giáo hoàng Phanxicô hoàn toàn thâm tín điều này. Ngài xác quyết rằng “chúng ta không được đào luyện cho sứ mệnh, nhưng chúng ta được đào luyện trong sứ mệnh, mà toàn cuộc đời chúng ta xoay quanh từ đây, với những chọn lựa và ưu tiên của nó. Đào luyện ban đầu và liên tục không thể là một bước (hay: giai đoạn) đi trước, song song hay tách biệt, của căn tính và tính nhạy cảm của người môn đệ. Sứ mệnh inter gentes là trường học tốt nhất của chúng ta: từ đó chúng ta cầu nguyện, suy tư, học hỏi và nghỉ ngơi. Khi chúng ta cô lập chính mình hay xa cách chính mình khỏi những người chúng ta được gọi để phục vụ, căn tính chúng ta như những người được thánh hiến bắt đầu biến dạng và trở thành một bức hý họa”.

Lập trường căn bản này thật vô giá bởi vì nó đặt ơn gọi và đào luyện trong vị trí sư phạm và mục vụ đúng đắn của nó đối với sứ mệnh. Và rồi điều này được khai triển trong Sứ điệp gởi TTN28 theo ba hướng rất chính xác. Hướng đi thứ nhất chỉ tới hai lập trường tiêu cực phải được vượt thắng; hướng thứ hai là đề xướng tích cực; và hướng thứ ba chỉ tới hai hiệu quả (hệ quả) thiết yếu. Nhưng chúng ta hãy đi theo thứ tự. Lập trường thứ nhất phải thắng vượt mời chúng ta trút bỏ chủ nghĩa giáo sĩ. Xét cho cùng, nếu chúng ta nghĩ về nó, thái độ giáo sĩ chủ nghĩa khinh thị ân sủng phép rửa. Nó nghĩ rằng nó là bí tích của phẩm cấp (hay tuyên khấn tu trì) vốn làm chúng ta thành chủ thể của sứ mệnh. Đang khi chúng ta tất cả biết rằng bệ thềm của sứ mệnh là phép rửa, vốn làm chúng ta tất cả thành “những môn đệ truyền giáo”. Chủ nghĩa giáo sĩ, như một “kinh nghiệm méo mó về thừa tác vụ” là một chướng ngại lớn cho sứ mệnh của giáo hội. “Nó là cá nhân tìm kiếm chiếm cứ, tập trung và quyết định những không gian bằng cách giảm thiểu và hư vô hóa việc xức dầu của Dân Chúa. Chủ nghĩa giáo sĩ, sống tiếng gọi một cách ưu tú, lẫn lộn sự tuyển chọn với đặc ân, phục vụ với tính nô lệ, hiệp nhất với đồng bộ, sự khác nhau với chống đối, đào luyện với nhồi sọ. Chủ nghĩa giáo sĩ là một sự hư hỏng vốn nuôi dưỡng những mối liên kết chức năng, cha chú, sở hữu và thậm chí thao túng với phần còn lại của các ơn gọi trong Giáo hội”. Ở đây nó là một vấn đề của tuyệt giao, khi chọn một lập trường như một Tu hội hầu thái độ này hoàn toàn bị trục xuất khỏi những phong thái tương giao thông thường của chúng ta.

Lập trường thứ hai phải thắng vượt là lập trường của chủ nghĩa nghiêm khắc, vốn lớn lên trong những thời của tính mỏng dòn, ở đó tất cả chúng ta đều tìm những sự chắc chắn, an toàn và liên đới: “Nó đòi phải cai quản và kiểm soát những tiến trình nhân loại với một thái độ tỉ mỉ, nghiêm nhặt và ngay cả vụn vặt khi đối diện với những giới hạn và yếu đuối của chính mình hay của người khác (nhất là của người khác).” Trước hết sự nghiêm khắc là một hình thức phòng thủ khi đối diện với thế giới phức tạp trong đó chúng ta sống: chúng ta phòng thủ chính mình bằng sự thờ ơ (tách ra xa), xa cách và bình phẩm; bằng  sự kiểm soát mọi người tới cực độ, do vậy, họ thiếu hẳn tự do diễn đạt; bằng cách tống khứ những khác biệt, vốn cũng biến thành việc tìm kiếm cực độ sự công nhận; bằng một sự thiếu tình yêu và lòng nhân hậu có hệ thống, khi xói mòn tận gốc rễ những tương giao tin tưởng và thân thiện; lối tương giao này mới có thể đảm bảo một môi trường giáo dục lành mạnh mà thôi; bằng quyền bính theo hàng dọc vốn liều trở thành hư hỏng bởi nó chẳng giúp ai tăng trưởng cả, như nó phải là thế trong bản tính của nó; bằng sự trở về quá khứ vì sợ dám liều phân định.

Sau khi nhấn mạnh hai chướng ngại này phải vượt qua, lập trường chủ động và tốt đẹp hệ tại ở lời mời gọi chính xác này: “Tôi khuyến khích anh em tiếp tục nỗ lực làm cho nhà của anh em thành một “phòng thí nghiệm về giáo hội”, có khả năng nhận biết, trân trọng, kích thích và khuyến khích những ơn gọi và sứ mệnh khác nhau trong Giáo hội”, bởi vì “việc loan báo tin mừng hàm ẩn mọi người được rửa tội thì được tham gia đầy đủ (tròn đầy) với quyền công dân trọn vẹn của mình”. Nếu chúng ta nghĩ đúng về nó, thì đây là trực giác ban đầu của Don Bosco tại Valdocco. Tất cả chúng ta nhớ giai thoại đáng yêu vốn đã mang Don Bosco tới linh địa của chúng ta: ngài đang tìm một chỗ để tiếp tục “nguyện xá” của mình, và Pancrazio Soave cống hiến cho ngài một môi trường để làm một “phòng thí nghiệm”. Cuối cùng nguyện xá của Don Bosco trở thành một “phòng thí nghiệm về giáo hội” để canh tân sư phạm và mục vụ, có khả năng nảy sinh một đoàn sủng biệt loại trong Giáo hội. Một nơi mà ở đó tất cả mọi ơn gọi đều hiện diện và linh hoạt: có những giáo dân chịu trách nhiệm từ bên ngoài và bên trong đối với công cuộc của Don Bosco, có những linh mục cống hiến thời giờ của mình, có mẹ Magarita và những bà mẹ khác, trên hết có những người trẻ tham gia vào sứ mệnh với Don Bosco và là những người đối tác đầu tiên và chính yếu của ngài trong công cuộc giáo dục và mục vụ của ngài. Lời đề nghị này phát triển tròn đầy trong Tu hội: nó nhìn nhận và trân trọng đầy đủ “cộng đoàn giáo dục mục vụ” như chủ thể của sứ mệnh. Nó không là gì khác hơn con đường được Vatican II khai sinh và được đảm nhận nghiêm chỉnh bởi Tu hội chúng ta từ TTN24 được triệu tập năm 1996. Nó là một dây xích không thể dừng lại của những thành tựu gây hứng thú; không may, dây xích này vẫn gặp chống đối, như chúng ta có thể thấy rõ từ sự kiện rằng nó được quan niệm như ý tưởng chủ đạo thứ ba của TTN28. Chúng ta không thể bàn đến nó, nhưng đọc lại “Tài liệu Làm việc” trong phần thứ ba là đủ để có được một ý tưởng về những mảng sáng và tối vốn đặc trưng hóa mùa chúng ta đang sống.

Sau khi đã đặt hạt nhân khai sinh của đề xướng của ngài, đề nghị của Đức Phanxicô được đi theo bởi lời mời lượng giá hai diện mạo nguyên thủy (độc đáo) của đoàn sủng Salêdiêng, với ý hướng là chứng nghiệm và sửa sai hai nguy cơ được liệt kê ở trên: “Theo nghĩa này, cụ thể tôi nghĩ đến hai sự hiện diện trong cộng thể Salêdiêng của anh em. Nó có thể giúp như những yếu tố từ đó so sánh chỗ đứng được những ơn gọi khác nhau giữa anh em nắm giữ; hai sự hiện diện cấu thành nên một “liều giải độc” chống lại bất kỳ khuynh hướng chủ nghĩa giáo sĩ và nghiêm khắc cực đoan nào: người Salêdiêng Sư huynh và phụ nữ”.

Trước tiên và trên hết đoàn sủng kêu gọi chúng ta điều gì? Đây là câu trả lời: “Tiếng gọi thứ nhất phải là sự hiện diện vui tươi và nhưng không giữa giới trẻ”. Đức Phanxicô nói cho chúng ta những người được thánh hiến và xin chúng ta trở lại với sự hiện hữu của mình hầu đáp lại điều Chúa đã kêu gọi chúng ta phải là (phải sống): “một dấu chỉ về tình yêu nhưng không của Chúa và một dấu chỉ dành cho Chúa nơi giới trẻ của mình; dấu chỉ này không được xác định (định nghĩa) tiên vàn bởi một tác vụ, một chức năng hay một dịch vụ đặc thù, nhưng bởi một sự hiện diện. Ngay cả trước khi làm các việc, người Salêdiêng là một lời nhắc nhớ sống động về một sự hiện diện trong đó tính sẵn sàng, lắng nghe, niềm vui và tận hiến là những ghi chú cốt yếu để khơi lên những tiến trình. Sự hiện diện nhưng không mới cứu Tu hội khỏi bất kỳ nỗi ám ảnh náo hoạt nào và khỏi bất kỳ chủ nghĩa giản lược mang tính kỹ thuật-chức năng nào”. Những lời rất rõ ràng! chẳng cần bất kỳ bình giải nào. Chỉ cần được chấp nhận trong một hình thức triệt để, khi nhận biết rằng một cách xác đáng, “những Salêdiêng sư huynh diễn đạt sống động tính nhưng không mà đoàn sủng mời chúng ta canh giữ”.

Làm thế nào đoàn sủng đó biểu lộ chính mình, cách chính yếu? Hẳn nhiên, qua một thái độ hiền mẫu, chào đón, yêu thương. Đây là lý do tại sao Đức Phanxicô tự hỏi và rồi hỏi chúng ta: “Valdocco sẽ trở nên thế nào nếu không có sự hiện diện của mẹ Magarita? Các nhà của anh em sẽ khả thể không nếu không có người phụ nữ của đức tin này?” Thật rất ý nghĩa, một trong những hành vi cộng đoàn cuối cùng mà chúng tôi có thể sống cùng nhau trong TTN28 là việc khánh thành một tượng mẹ Magarita bằng đồng trong hành vi chào đón một người thiếu niên nghèo đến Valdocco. Sự tiếp nhận đó luôn là hiền mẫu, ngay cả khi không phải là một người mẹ trực tiếp làm thế! Vì thế, chính đoàn sủng chào đón của chúng ta mang tính hiền mẫu trước khi là hiền phụ. Chúng ta biết rằng có một tranh luận rộng rãi liên tục về sự hiện diện và vai trò của phụ nữ trong xã hội và trong Giáo hội, mà hành trình thượng hội đồng về giới trẻ cũng đã nuôi dưỡng và hỗ trợ. Đoàn sủng Salêdiêng là một đoàn sủng gia đình, thân tín, hiền mẫu. Vì lẽ này nhận xét đó đến thật tự nhiên: “Không có một sự hiện diện thật sự, hiệu quả và yêu thương của phụ nữ, công cuộc của anh em thiếu đi sự can đảm và có thể suy giảm sự hiện diện như sự hiếu khách, như mái nhà”. Yếu tố thứ nhất của “những tiêu chuẩn nguyện xá” nằm ở việc là một mái ấm chào đón;  khía cạnh này rõ ràng liên kết với sự hiện diện của phụ nữ, bởi vì không có một người mẹ, thật khó mà có một mái ấm. Đoàn sủng Salêdiêng được khai sinh bởi hai người mẹ: Đức Maria Phù hộ các Giáo hữu. Từ giấc mơ 9 tuổi, ngài đã được nhận biết như là bà giáo của Don Bosco, và mẹ Magarita. Từ nơi người mẹ này, vị thánh của giới trẻ học biết rằng tình yêu cụ thể – cùng với lý trí và tôn giáo – sẽ trở thành những cột trụ của phương pháp giáo dục Salêdiêng.

Cộng đoàn giáo dục mục vụ có thật sự là chủ thể của sứ mệnh ngày nay không? Nhà Salêdiêng trong đó chúng ta sống có phải là một “phòng thí nghiệm thường hằng về khoa sư phạm, linh đạo và sứ mệnh không?

Hội nhập văn hóa và tính liên văn hóa của đoàn sủng Salêdiêng

Điểm thứ tư của Sứ điệp gởi cho TTN28 mời chúng ta quan sát đoàn sủng từ viễn cảnh khác là tính phổ quát vũ hoàn của nó: “Chọn lựa Valdocco” trong tính đa nguyên của ngôn ngữ (hay: trong nhiều ngôn ngữ khác nhau). Chân trời của Don Bosco từ ban đầu là “Công giáo”, nghĩa là, phổ quát, không thể loại trừ bất kỳ ai khỏi vòng tay của ngài: chúng ta biết rằng ngay cả lúc thiếu nhân sự trong những nhà Salêdiêng đầu tiên ở Ý và Âu châu, ngài đã sai những vị truyền giáo đầu tiên đến Achentina!

Kinh nghiệm của một Tổng Tu nghị, như kinh nghiệm của một Thượng Hội đồng Giám mục, là một kinh nghiệm về tính đa nguyên, tính khác biệt trong duy nhất và chắc chắn không phải là một xác nhận đồng bộ (hay: đồng phục). Trong bốn tuần chúng tôi cùng chung sống ở Valdocco, nhớ lại [giờ] kinh chiều được những Vùng khác nhau tổ chức là đủ rồi: biết bao ngôn ngữ ta chưa biết và không thể lãnh hội, biết bao phong thái cầu nguyện khác nhau, biết bao cách khác nhau liên hệ với Chúa. Tuy nhiên, tất cả chúng ta luôn cảm nhận sống trong hài hòa trọn vẹn qua tính đa biệt rất diễn cảm như thế! Tính đa nguyên, mà nhiều lần làm chúng ta sợ hãi và làm chúng ta đóng kín nơi chính mình, trong ánh sáng đức tin là một phúc lành lớn lao, bởi vì theo ánh sáng của Tin mừng nó ghi dấu sự cứu chuộc Babel vào ngày lễ Ngũ Tuần!

Nhưng ở đây chúng ta cần đi sâu hơn, bởi vì Đức Phanxicô mời gọi thật rõ ràng: “Sự hiện diện phổ quát của gia đình Salêdiêng là một kích thích tố và một lời mời gọi canh giữ và giữ gìn sự phong phú của nhiều văn hóa trong đó anh em chìm ngập vào mà không cố gắng “xác nhận” (homologate) chúng”. Ngày nay có một cám dỗ mạnh mẽ tới tính đồng bộ, vốn nảy sinh từ nỗi sợ hãi người khác. Sự toàn cầu hóa tìm cách áp đặt trên mọi người chỉ một khuôn mẫu mà thôi, một ý tưởng độc hữu (loại trừ), một phong thái được chuẩn hóa và lặp đi lặp lại. Đây là một căn bệnh thế kỷ thật sự vốn tiêm nhiễm mọi người một chút; và để thuyên chữa nó ta cần canh tân sự hoán cải của cõi lòng. Bởi vì chúng ta đều biết rằng sự hiệp thông theo nghĩa Kitô hữu chỉ có thể được sinh ra do bảo trì tính độc đáo của mình; chỉ bằng cách này nó mới đóng góp vào vẻ đẹp và sự hòa âm của toàn thể. Nếu chúng ta đều đồng nhau, sẽ không có sự hiệp thông, nhưng chỉ có sự xác nhận (homologation) tầm thường. Vì lẽ này Đức Giáo hoàng Phanxicô thường nói về hình thức của Giáo hội như một hình khối đa diện chứ không phải quả cầu: cái sau quy chiếu đến tính đồng bộ của một bức tường một mầu; trái lại, hình khối nhiều mặt được tạo thành bởi nhiều hòn đá mà chỉ trong mối tương quan hòa hợp của chúng mới làm cho một cái gì đẹp đẽ và độc đáo thành có thể được.

Ngày nay chúng ta sẵn lòng hơn nói về hội nhập văn hóa – đó là khả năng để nhận diện những hạt giống của Lời hiện diện trong mọi nền văn hóa, ở đó ân sủng luôn đi trước sự hiện diện của Giáo hội và việc công bố ơn cứu độ – và về sự liên văn hóa: với hạn từ sau, chúng ta phải hiểu sự phong phú biệt loại vốn trồi hiện từ việc các văn hóa khác nhau gặp gỡ nhau và có thể làm mầu mỡ lẫn nhau khi thật sự trao đổi các tặng phẩm, khi kiến tạo những năng động lực tương giao mới vốn làm giàu cho gia sản của cái hiện có. Khi thúc đẩy hướng chính xác này, trong Sứ điệp gởi cho TTN28 Đức Phanxicô quả quyết rằng “Kitô giáo không chỉ có một khuôn mẫu văn hóa mà thôi” và rồi các văn hóa khác phải đồng hình đồng dạng theo đó, khi chối bỏ tính biệt loại của chúng.”

Trong Thượng Hội đồng Giám mục đặc biệt về miền Amazon, như gia đình Salêdiêng, chúng ta được khai trí, bởi vì chúng ta có thể tái khám phá một số nhà truyền giáo vốn không làm đảo lộn (hay: lật đổ) chút nào văn hóa trong đó họ được xen nhập vào, nhưng hoàn toàn đảm nhận nó, không chỉ ngôn ngữ, song cả những phong tục của dân tộc mà họ được sai đến. Họ loan báo tin mừng qua một cuộc đối thoại có khả năng lắng nghe với niềm kính trọng và khôn ngoan lượng giá những yếu tố văn hóa địa phương và biến đổi chúng theo ân sủng của Tin mừng. Chân phước Nữ tu Maria Troncatti, đầy tớ Chúa Rudolf Lunkenbein và Lu-y Bolla vĩ đại, ta chỉ nhắc đến một số người được trích dẫn nhiều nhất tại Thượng Hội đồng Giám mục vừa qua mà thôi. Họ hoàn toàn ý thức lời mời mà Đức Giáo hoàng Phanxicô ngỏ cho chúng ta: “Anh em hãy cố gắng làm cho Kitô giáo có khả năng đảm nhận ngôn ngữ và văn hóa của dân tộc ở nơi chốn đó”. Lời mời ấy thì rõ ràng và được lặp lại: “Người Salêdiêng được gọi để nói bằng tiếng mẹ đẻ của từng nền văn hóa trong đó họ sống”. Tu hội Salêdiêng ở trong sự biến đổi sung mãn (metamorphosis). Trong những ngày khai mạc của mỗi TTN Bề Trên Cả trình bày bài tường trình chi tiết về “tình trạng của Tu hội”. Từ những dữ liệu được cống hiến cho chúng ta vào lúc bắt đầu TTN28, chúng ta có thể thấy rất nhiều thay đổi xảy ra đến nỗi chúng ta dễ dàng thấy rằng “địa lý” của Tu hội đang chầm chậm chuyển đổi: Phi châu là một lục địa chứa đầy tương lai, nó cần phải kiện cường những hành trình đào luyện; Âu châu tiếp tục suy thoái con số và đang lão hóa, bất chấp sự kiện châu Âu tiếp tục có những nguồn liệu về tư tưởng và phương thế cho sứ mệnh; còn lục địa Á châu lớn lao, ở đó phần đa dân số giới trẻ của thế giới cư ngụ, tiếp tục là một mảnh đất mầu mỡ cho đoàn sủng; lục địa Mỹ châu, đang khi duy trì một sự nhạy cảm cao về tôn giáo, lại đang kinh nghiệm một số những đấu tranh ơn gọi vốn làm cho chúng ta suy nghĩ. Nay những chuyển động đá nhão bên trong (magmatic), tuy chậm chạp song ý nghĩa trong kỳ hạn trung bình và lâu dài, mời gọi chúng ta can đảm và vui tươi đi vào một mùa mới của đương đầu, làm giàu và thực hiện của đoàn sủng Salêdiêng.

Chúng ta đã nói ngay lúc đầu và chúng ta sẽ mạnh mẽ lặp lại: Đoàn sủng không phải là một khối đá hoa cương không bị trầy xước và không thay đổi, nhưng là một ngọn lửa bừng cháy mà phải liên lỷ được nuôi dưỡng và vì thế nó được gọi để canh tân chính mình hầu tiếp tục là chính mình. Đó là vấn đề lượng giá những đóng góp mới để làm cho chính đoàn sủng tăng trưởng, bởi vì, như Đức Phanxicô đảm bảo chúng ta, “sự duy nhất và hiệp thông của gia đình anh em thì có thể đảm nhận và chấp nhận tất cả những khác biệt này, vốn có thể làm giàu toàn thân mình trong một sự hiệp lực của thông giao và tương tác ở đó mọi người có thể cống hiến điều tốt nhất của chính mình vì thiện ích của toàn thân mình. Như vậy, tính Salêdiêng, chẳng những không bị mất trong tính đồng phục của những sắc điệu, sẽ thủ đắc một diễn đạt đẹp đẽ hơn và thu hút hơn và sẽ có thể diễn đạt chính mình trong “thổ ngữ” (x. 2 Mc 7:26-27)”.

Cuối cùng, Đức Phanxicô quy chiếu tới một “ngôn ngữ chung” mới mẻ; nó đã đi vào thế giới chúng ta qua đường ngang, cụ thể là, “thực tại ảo ùa ngập vào như ngôn ngữ đang thống trị”. Khi nhìn nhận rằng đây là “một không gian của sứ mệnh”, ngài cũng cảnh báo một số nguy hiểm, bởi vì môi trường kỹ thuật số “có thể nhốt chúng ta trong chính mình và cô lập chúng ta trong thực tại ảo dễ dãi (an nhàn), vô dụng; thực tại đó ít hay không được cam kết gì hết cho những mảnh đời của giới trẻ, cho các anh em trong cộng thể hay những trách vụ tông đồ”. Ở đây chúng ta cần phải rất cẩn thận bởi vì “sự rút lui mang tính cá nhân chủ nghĩa, rất rộng khắp và được xã hội đề xướng trong văn hóa kỹ thuật số rộng lớn, đòi hỏi phải chú ý đặc biệt, không chỉ đến những khuôn mẫu sư phạm chúng ta mà cả đến việc sử dụng thời giờ cá nhân và cộng thể, những hoạt động và của cải chúng ta”

Chúng ta xem xét ra sao điều này là đoàn sủng Salêdiêng tiếp tục sống nhờ vào sự trao đổi liên tục những tặng phẩm? Làm thế nào chúng ta bàn đến sự biến đổi sung mãn hiện hành của Tu hội?

Hãy nhờ đến ân sủng của khởi đầu

Những lời cuối cùng của Sứ điệp gởi cho TTN28, thực sự ngắn gọn và chính xác; nó quy chiếu chúng ta tới một kinh nghiệm thường hằng suốt đời Don Bosco, tới một ân sủng đặc biệt  vốn đi theo từng bước của ngài: “chọn lựa Valdocco và khả năng mơ tưởng. Từ đầu cho đến cuối đời, vị sáng lập chúng ta đã mơ, khi học từ những giấc mơ để tin vào Thiên Chúa đấng dẫn dắt ngài và hiện thực điều ngài đã mơ với sự ngoan cố, trong sự chắc chắn rằng qua ngôn ngữ đặc biệt đó Thiên Chúa đang tỏ mình ra trong đời ngài: “với chúng Chúa vạch đường trong đời ngài và trong đời sống của toàn Tu hội bằng cách trải rộng sự tưởng tượng về những điều khả thể”. Chúng ta có thể dám nói ý tưởng rằng qua những giấc mơ, Chúa trực tiếp đồng hành với Don Bosco, khi mở rộng trái tim ngài: thực vậy, “những giấc mơ không hề ru ngủ ngài; như xảy ra cho thánh Giuse, chúng giúp Don Bosco đảm nhận chiều sâu khác và thước đo khác của đời sống, những điều vốn nảy sinh từ lòng xót thương của Thiên Chúa”.

Nếu chúng ta nghĩ về nó, điều đang mất đi trong thế giới chúng ta ngày nay và trong thời đại chúng ta là khả năng tưởng tượng. Như Giáo hội và một Tu hội, mãi đến vài thập niên trước, chúng ta đã  có “những thuật trình lớn lao” vốn cho chúng ta sự sống và sức mạnh để hoàn thành những trách vụ lớn lao, những giấc mơ mà chúng ta liên lỷ vui tươi giao cho dân chúng và giới trẻ chúng ta; điều đó đã sâu xa nắn hình sự hiện hữu cá nhân và cộng thể: bi kịch của lịch sử cứu độ, niềm hy vọng chắc chắn vào sự sống đời đời, nhiệt tình mạo hiểm truyền giáo, khát vọng tới sự thánh thiện, sự say đắm trao hiến chính mình trong đời sống được dành giới trẻ trong hình thức của sự thánh hiến tu trì, sự chắc chắn gắn bó với một hình thức đời sống tròn đầy và sung mãn.

Bị chiến thắng bởi chân trời nội tại của thế hệ chúng ta, ngày nay chúng ta liều bị cái hiện tại đè bẹp mà không vun trồng một tầm nhìn tích cực về tương lai. Bằng cách này chúng ta không thể thấy bất kỳ lối đường nào để siêu việt cái kinh nghiệm trần thế mà ngày qua ngày chúng ta đang sống. Trí tưởng tượng đã co rút lại và thước đo đời sống đã nên hẹp hòi và quy về mình (tự họa), bị nhốt trong những không gian thoải mái (an nhàn), được bảo vệ và an toàn. Tôi rất ấn tượng bởi tiếng nói của giới trẻ tại Thượng Hội đồng Giám mục; vào những thời khắc khác nhau dọc theo việc chia sẻ hành trình của mình, họ đã nói rằng họ thường bị buộc phải bỏ đi những giấc mơ của mình, nhiều đến nỗi thậm chí rất đông người trẻ ngừng ước mơ luôn. Điều gì xảy ra cho một người trẻ ngừng ước mơ? Theo ý tôi, người đó mất chính hồn tuổi trẻ, vốn trên hết hệ tại ở việc nhìn tới tương lại với niềm vui và hy vọng. Nhưng chúng ta cũng có thể tự hỏi chính mình: điều gì xảy ra cho một Tu hội từ khước để nuôi dưỡng (cổ vũ) giấc mơ của mình và thậm chí bỏ đi việc ước mơ? Lại nữa, điều gì xảy ra cho một Giáo hội không thể vun trồng những giấc mơ? Ngừng mơ ước là giết chết hy vọng, và để cho đời mình bị “những đam mê buồn thảm” và “những đam mê tăm tối” thống trị: thất vọng, phiền muộn, chủ nghĩa hiện tại, phán đoán tiêu cực về mọi sự, không có khả năng nhìn ra điều tốt hiện hữu, cái chết của niềm ước ao tìm những lối đường đi ra, và không có khả năng chiến đấu cho một thế giới tốt đẹp hơn, để cho chính mình bị đày xuống. Không có những giấc mơ, chúng ta chưa chết khô, nhưng thậm chí chúng ta không sống! Không có những giấc mơ, đời sống chúng ta đang trên nẻo đường của Giuđa, vốn không còn thấy bất kỳ ánh sáng nào trong nẻo đường của mình. Một đời sống từ bỏ ước mơ thì được đặt định cho buồn thảm.

Giáo hội và Tu hội sẽ có thể làm nảy sinh một mùa mới chỉ với điều kiện Giáo hội và Tu hội có thể chạm đến những cõi lòng của giới trẻ trên bình diện trí tưởng, nếu Giáo hội và Tu hội thành công trong việc thức tỉnh nơi chúng những lý tưởng cao cả vì chúng đáng cho ta sống tới cùng, khi trình bày đức tin như một cuộc mạo hiểm có khả năng động viên cuộc sống, cống hiến cho nó một ý nghĩa tích cực và hứng thú. Chiếm đoạt khả năng ước ao một đời sống tròn đầy và sung mãn là điều làm cho đức tin thành một cái gì hấp dẫn và đáng ao ước trong tất cả những kỷ nguyên khác nhau của lịch sử Kitô giáo. Chúng ta vẫn còn có thể nói về đức tin như một cái gì gây hứng thú và có thể thức tỉnh những cõi lòng của những người đương thời hay không? Dường như đối với tôi trong lời mời gọi ngôn sứ của Giáo hoàng Phanxicô – “Hãy mơ… và làm cho dân chúng mơ!” – có một chút ít của điều ấy.

 Và như thế vào cuối ngày đó Sứ điệp gởi cho TTN28 vang lên trong cõi lòng chúng tôi; trong một huấn từ tối tuyệt vời và thân quen, nó mời chúng ta khôi phục nơi chính mình khả năng mơ ước đó vốn là một dấu chỉ rõ ràng về tính sinh động của đoàn sủng giáo dục chúng ta: “Tôi ước ao cống hiến cho anh em những lời này như “những huấn từ tối” trong mọi nhà Salêdiêng tốt lành vào cuối ngày, khi mời gọi anh em mơ ước và thật sự có những giấc mơ vĩ đại. Anh em hãy biết rằng cái còn lại sẽ được ban thêm cho anh em. Hãy mơ về những nhà rộng mở, sinh hoa trái và loan báo Tin mừng, có khả năng cho phép Chúa tỏ cho nhiều người trẻ tình yêu tuyệt đối (vô điều kiện) của ngài và cho phép anh em thưởng thức vẻ đẹp mà anh em đã được kêu gọi tới. Anh em hãy mơ… Và không chỉ cho anh em và cho sự thiện hảo của Tu hội, nhưng cho tất cả giới trẻ thiếu mất sức mạnh, ánh sáng và sự an ủi của tình bạn với Đức Giêsu Kitô, thiếu mất một cộng đoàn đức tin vốn nâng đỡ chúng, thiếu mất một chân trời ý nghĩa và sự sống”.

Dường như đối với tôi, đó không là gì hơn một khoa sư phạm của đức tin và lời ngôn sứ. Đức tin mà chúng ta được mời gọi tới qua những giấc mơ, vốn là một lời ngôn sứ về tương lai và một phúc lành cho chúng ta, cho giới trẻ và cho tất cả mọi người vốn chia sẻ với chúng ta một đam mê giáo dục. Đối với Don Bosco, những giấc mơ  là những lời ngôn sứ được trù định để nên thực tại (thật): giấc mơ mang ngài tới phía trước trong đức tin, đẩy ngài dám làm điều không thể tưởng nghĩ, để dám liều cho điều ấy. Chính Thiên Chúa, đấng qua những giấc mơ, đồng hành với ngài từng bước, làm cho ngài thành một ngôn sứ vì thiện ích của tất cả giới trẻ, không loại ai cả.

Chúng ta nuôi dưỡng trí tưởng của mình ra sao? Những giấc mơ vĩ đại của chúng ta là gì?

Giuse Nguyễn văn Am, sdb chuyển ngữ

Visited 10 times, 1 visit(s) today