LECTIO DIVINA THỨ BA TUẦN 9 THƯỜNG NIÊN
NGÀY 05-06-2018 : Mc 12, 13-17
“Pay Caesar what belongs to Caesar, and God what belongs to God” | “Các ông hãy trả cho Cêsarê cái gì thuộc về Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa” |
1) Opening prayer | 1) Kinh khai mạc |
Father, your love never fails. Hear our call. Keep us from danger and provide for all our needs. We ask this through our Lord Jesus Christ, your Son, who lives and reigns with you and the Holy Spirit, one God, for ever and ever. Amen. | Lạy Cha, Tình yêu của Cha không bao giờ thiếu. Xin lắng nghe lời chúng con kêu cầu. Xin gìn giữ chúng con khỏi mọi nguy hiểm và ban cho chúng con mọi điều cần thiết. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Cha, Người hằng sống và hiển trị cùng Cha và Chúa Thánh Thần, một Thiên Chúa đến muôn đời. Amen. |
2) Gospel Reading : Mark 12,13-17 | 2) Bài Tin Mừng : Mc 12, 13-17 |
Next, the priests, the scribes and the elders sent to Jesus some Pharisees and some Herodians to catch him out in what he said. These came and said to him, ‘Master, we know that you are an honest man, that you are not afraid of anyone, because human rank means nothing to you, and that you teach the way of God in all honesty. Is it permissible to pay taxes to Caesar or not? Should we pay or not?’ Recognising their hypocrisy he said to them, ‘Why are you putting me to the test? Hand me a denarius and let me see it.’ | Khi ấy, người ta sai mấy người thuộc nhóm biệt phái và đảng Hêrôđê đến Chúa Giêsu để lập mưu bắt lỗi Người trong lời nói. Họ đến thưa Người rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật không vị nể ai, vì Thầy chẳng xem diện mạo, một giảng dạy đường lối Thiên Chúa cách rất ngay thẳng. Vậy chúng tôi có nên nộp thuế cho Cêsarê không? Chúng tôi phải nộp hay là không?” Nhưng Người biết họ giả hình, nên bảo rằng: “Sao các ông lại thử Ta? Hãy đưa Ta xem một đồng tiền”. |
They handed him one and he said to them, ‘Whose portrait is this? Whose title?’ They said to him, ‘Caesar’s.’ Jesus said to them, ‘Pay Caesar what belongs to Caesar — and God what belongs to God.’ And they were amazed at him. | Họ đưa cho Người một đồng tiền và Người hỏi: “Hình và ký hiệu này là của ai?” Họ thưa: “Của Cêsarê”. Người liền bảo họ: “Vậy thì của Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa”. Và họ rất đỗi kinh ngạc về Người. |
3) Reflection | 3) Suy ngắm |
• In today’s Gospel, the confrontation between Jesus and the authority continues. The priests and the Scribes had been criticized and denounced by Jesus in the parable of the vineyard (Mk 12, 1-12). Now, they themselves ask the Pharisees and the Herodians to set up a trap against Jesus to be able to condemn him. They ask questions to Jesus concerning the taxes to be paid to the Romans. This was a controversial theme which divided public opinion. The enemies of Jesus want, at all costs, to accuse him and diminish the influence that he had on the people. Groups, which before were enemies between them, now get together to fight against Jesus. This also happens today. Many times, persons or groups, enemies among themselves, get together to defend their privileges against those who inconvenience them with the announcement of truth and of justice. | * Trong Bài Tin Mừng hôm nay, sự đối kháng giữa Chúa Giêsu và quyền bính tiếp tục. Các Thượng tế và Kinh sự đã bị Chúa Giêsu chỉ trích trong du ngôn vườn nho (Mc 12, 1-12). Bây giờ chính họ xin những người Biệt phái và Nhóm Hêrôđê lập mưu để chống lại Chúa Giêsu để có thể kết án Ngài. Họ hỏi Chúa Giêsu về việc đóng thuế cho người Rôma. Đây là chủ đề gây tranh cãi đã phân chia ý kiến của dân chúng. Những kẻ thù của Chúa Giêsu muốn bằng mọi giá tố cáo Chúa Giêsu và giảm thiểu ảnh hưởng Ngài đã có được trên dân chúng. Là những nhóm trước đây là đối thủ của nhau, bây giờ quy tụ lại để chống đối Chúa Gies6u. Ngày nay cũng xẩy ra như vậy. Nhiều lến, dân chúng và các nhóm, là thù địch đối với nhau, nhưng lại quy tụ với nhau để bảo vệ quyền lợi của họ chống lại những người gây phiền phức cho họ, bằng bách công bố một chân lý và sự công bằng. |
• Mark 12,13-14: The question of the Pharisees and the Herodians. The Pharisees and the Herodians were the local leaders in the villages of Galilee. It was a long time since they had decided to kill Jesus (Mk 3, 6). Now, because of the order of the priests and of the elders, they want to know if Jesus is in favour or against the payment of taxes to the Romans, to Caesar. An underhanded or sly question, full of malice! Under the appearance of fidelity to the Law of God, they look for reasons in order to be able to accuse him. If Jesus says “You should pay!”, they could accuse him of being a friend of the Romans. If he would say: “No, you do not have to pay!”, they could accuse him to the authority of the Romans that he was subversive. This seemed to be a dead alley! | * Mc 12, 13-14 : Vấn nạn của Nhóm Biệt phái và Hêrôđê. Nhóm Biệt phái và Hêrôđê là những người lãnh đạo trong các làng Galilê. Đã từ lâu họ quyết định giết Chúa Giêsu (Mc 3, 6). Bây giờ, vì lệnh truyền của các Thượng tế và Kỳ mục, họ muốn biết Chúa Giêsu ủng hộ hay chống lại việc nộp thế cho người Rôma, cho Cêsarê. Một vấn đề dối trá và ranh mãnh, đầy ác ý! Dưới cái vỏ trung thành với Luật Chúa, họ truy tìm những lý do để có thể kết án Chúa Gies6u. Nếu Chúa Giêsu nói “Họ phải nộp!”, họ có thể tố cáo Ngài là bạn của người Rôma. Nếu Ngài nói : “Không, họ không được nộp thuế!”, họ có thể tố cáo với quyền bính Rôma Ngài là kẻ chống đối. Đây có thể là một cửa tử! |
• Mark 12, 15-17: Jesus’ answer. Jesus perceives their hypocrisy. In his response he does not lose time in useless discussion, and goes straight to the centre of the question. Instead of responding and of discussing the affair of the tribute to Caesar, he asks to be shown a coin and he asks: “Whose portrait and inscription is this?” They answered: “Caesar’s!” The answer of Jesus: “Then pay Caesar what belongs to Caesar and to God what belongs to God”. In practice, they already recognized the authority of Caesar. They were already giving to Caesar what belonged to Caesar, because they used his currency, his money to buy and to sell and even to pay the taxes of the Temple! That which interested Jesus was that they “gave to God what belongs to God!, that is, that they restituite the people to God, from their deviation, because with their teaching they blocked the entrance into the Kingdom (Mk 23,13). Others explained this phrase of Jesus in another way: “Give to God what belongs to God!”, that is, practice justice and honesty as the Law of God demands, because your hypocrisy denies to God what is due to him. The disciples have to be aware! | * Mc 12, 15-17 : Chúa Giêsu trả lời. Chúa Giêsu nhận ra sự dối trá của họ. Trong câu trả lời, Ngài không mất thời gian để tranh luận vô ích, và Ngài đã đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề. Thay vì trả lời và tranh luận về vấn đề nộp thuế cho Cêsarê, Ngài xin họ cho coi đồng tiền và hỏi : “Hình và ký hiệu này là của ai?” Họ thưa : “Của Cêsarê”. Câu trả lời của Chúa Giêsu : “Vậy thì của Cêsarê, hãy trả cho Cêsarê; của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa”. Trong thực tế họ đã nhìn nhận quyền bính của Cêsarê. Họ đã cống hiến cho Cêsarê những gì thuộc Cêsarê, vì họ dùng đồng tiền của Cêsarê, họ dùng đồng tiền của Cêsarê để mua bán và ngay cả đóng thuết Đền Thờ! Những điều Chúa Giêsu quan tâm là “hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”, nghĩa là trả dân chúng lại cho Thiên Chúa, vì sự lạc hướng của họ, vì với lời dạy dỗ của họ, họ ngăn cản dân chúng vào Nước Trời (Mc 23, 13). Người khác cắt nghĩa câu nói này của Chúa Giêsu cách khác : “Hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa!”, nghĩa là thực hình sự công bình và ngay thẳng như Luật Chúa yêu cầu, vì sự giả dối của các ông từ chối cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài. Các môn đệ phải chú ý! |
• Taxes, tributes, taxes and denarii. “In Jesus’ time, the people of Palestine paid many taxes, tributes and the tenth part of their income, both to the Romans as well as to the Temple. The Roman Empire had invaded Palestine in the year 63 A.D. and they imposed many taxes and tributes. According to the estimates made, half or even more of the family salaries were used to pay the tributes, taxes and the tenth part of their income. The taxes which the Romans demanded were of two types: direct and indirect. | * Thuế má, đóng góp. “Trong thời Chúa Giêsu, dân Palestine phải đóng nhiều thứ thuế, đóng góp và thập phân số thu nhập của mình, cho người Rôma cũng như cho Đền Thờ. Đế quốc Rôma xâm chiếm Palestine năm 63 trước Công nguyên và họ áp đặt nhiều thứ thuế và đóng góp. Theo ước tính, một nửa hay hơn nửa tiền lương của gia đình được dùng để đóng góp, hay đóng thuế và đóng thập phân theo thu nhập của họ. Thuế người Rôma yêu cầu có hai loại : trực tiếp và gián tiếp. |
a) The Direct tax was on property and on persons. The tax on property (tributum soli): the fiscal officers of the government verified how large the property was, the production and the number of slaves and they fixed the amount to be paid. Periodically, there was a verification through the census. The tax on persons (tributum capitis): was for the poor class who owned no land. This included both men and women, between 12 and 65 years of age. It was a tax on the force of work; 20% of the income of every person was used to pay taxes. | a) Thuế trực tiếp dựa vào tài sản và con người. Thuế tài sản (đóng góp tiền) : nhân viên công khố của chính phủ tính số tài sản, việc sản xuất và con số nô lệ, rồi ấn định số phải đóng. Thỉnh thoảng, định giá lại qua thỏa thuận. Thuế thân (đóng góp theo đầu người) : dành cho người nghèo không có đất đai. Bao gồm đan ông và đàn bà, từ 12 đến 65 tuổi. Đó là thuế theo sức lao động; 20 phần trăm thu nhập là mức thuế mỗi người phải đóng. |
b) The Indirect tax was placed on transactions of different types: a Crown of gold: Originally, it was a question of a gift to the Emperor, but then it became an obligatory tax. This was paid on special occasions, for example: the feast and the visits of the Emperor. The tax on salt: The salt was the monopoly of the Emperor. It was necessary to pay the tribute on the salt for commercial use. For example, the salt used by fishermen to dry up the fish and to sell it. From this comes the word “salary”. A tax on buying and selling: for every commercial use 1% was paid. This money was paid to the fiscal officers during the holidays. When a slave was bought they demanded 4%. In every registered commercial contract, they demanded 2%. The tax for exercising a profession: There was need for everyone to have a license for everything. For example, a cobbler in the city of Palmira paid one denarius a month. A denarius was equivalent to the salary of one day. And even the prostitutes had to pay. A tax for the use of public utilities: Emperor Vespasiano introduced the tax in order to be able to use the public toilets in Rome. He would say: “Money does not stink!” | b) Thuế gián tiếp được tính theo nhiều thỏa thuận khác nhau : Triều thiên vàng : Ban đầu là quà phải dâng lên Hoàng đế, nhưng sau đó là thuế bó buộc. Đó là thuế bó buộc phải đóng trong những trường hợp đặc biệt, ví dụ : ngày lễ và ngày Hoàng đế thăm viếng. Thuế bằng muối : Muối là độc quyền của Hoàn đế. Phải đóng góp theo muối để sử dụng trong thương mại. Ví dụ : muối được dân chài ướp cá và bán. Từ đó có danh từ “salary – muối – tiền lương“. Thuế về việc buôn bán : đối với mỗi dịch vụ thương mai, phải trả 1 phần trăm. Số tiền này phải trả cho nhân viên công khố trong những ngày nghỉ. Khi một nô lệ được mua, họ yêu cầu 4 phần trăm. Trong mỗi dịch vụ thương mại, họ yêu cầu 2 phần trăm. Thuế cho mỗi việc làm : mỗi người đều phải có phép làm mọi việc. Ví dụ, người chữa giày trong thành phố Palmira mỗi tháng phải trả một đồng (denarius). Denarius tương đương tiền lương một ngày. Kể cả người mại dâm cũng phải trả. Thuế sử dụng tiện nghi công cộng : Hoàng đế Vespasiano đưa vào loại thuế này để có thể sử dụng nhà vê sinh công cộng ở Rôma. Ông nói : “Tiền không có mùi!” |
c) Other taxes and obligations: toll or customs; forced work; Special expenses for the army (to give hospitality to the soldiers; to pay for the food of the troops); Taxes for the Temple and the worship. | c) Những thuế và bổn phận khác : phí cầu đường hay hải quan; lao động bó buộc; những chi phí đặc biệt cho quân đội (cung cấp tiện nghi cho lính; cung cấp thực phẩm cho quân đội); Thuế cho Đền thờ và việc thờ phượng. |
4) Salesian Constitutions | 4) Hiến Luật Salêdiêng |
49. Importance of life in community
To live and work together is for us Salesians a fundamental requirement and a sure way of fulfilling our vocation. This is why we come together in communities, where our love for each other leads us to share all we have in a family spirit, and so create communion between person and person. The community is a reflection of the mystery of the Trinity: there we find a response to the deep aspirations of the heart, and we become for the young signs of love and unity. |
HL 49. Giá trị của cuộc sống trong cộng thể
Đối với người Salêdiêng chúng ta, cùng nhau sống và làm việc là một đòi hỏi nền tảng và một đường lối vững chắc để thực hiện ơn gọi chúng ta. Bởi thế chúng ta quy tụ lại trong cộng thể, trong đó chúng ta mến thương nhau tới độ chia sẻ mọi sự cho nhau trong tinh thần gia đình và xây dựng sự hiệp thông giữa những con người. Trong cộng thể mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi được phản ánh; và trong đó chúng ta tìm được câu trả lời cho khát vọng thâm sâu của cõi lòng và trở nên cho thanh thiếu niên dấu chỉ của tình yêu và hiệp nhất. |
5) Don Bosco’s Teachings | 5) Lời dạy dỗ của Don Bosco |
When writing about the Brotherly Charity, Don Bosco wrote : “When this brotherly love reigns in a community towards one another, and all rejoice in another’s good just as thouh it were their own, then that house becomes heaven itself, and justifies the words of the prophet David: “How good and pleasant it is when brothers live in unity”. But as soon as self-love gains dominion there, and disagreements and dislikes arise among the members, then that house quickly resembles hell. Our Lord takes great pleasure in seeing brethren dwelling in his house in unum, that is, united in heart and mind, serving God and helping one another in charity. This is the praise given to the early Christians by Saint Luke, that they so loved one another that seemed that they had but one heart and soul” | Khi viết về Bác ái Huynh đệ, Cha Thánh Gioan Bosco đã viết : “Khi bác ái huynh đệ thống trị một cộng thể, mọi hội viên thương yêu nhau, và mỗi người cùng chung hưởng cái hay cái tốt của người khác như của riêng mình, thì lúc đó nhà này trở thành một Thiên đàng, đúng như lời tiên tri Đavít : Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau[1]. Nhưng vừa khi lòng tự ái thống trị nhà ấy, và có những mối bất hòa đố kị giữa các hội viên, nhà đó tức khắc trở nên giống như hỏa ngục. Chúa rất hài lòng khi thấy các anh em trong nhà sống in unum (hiệp nhất với nhau) nghĩa là đồng tâm nhất trí phụng sự Chúa và giúp đỡ lẫn nhau trong tình bác ái. Đây là lời thánh Luca khen ngợi các kitô hữu tiên khởi : Mọi người yêu mến nhau, đến nỗi như chỉ có một lòng một trí thôi[2]. |
6) Personal questions | 6) Câu hỏi cá nhân |
• Do you know some case of groups or of persons who were enemies between themselves, but who were then united to follow an honest person who bothered or inconvenienced and denounced them? Has this happened some times with you? | * Bạn có biết trường hợp những người hay các nhóm là đối thủ với nhau, nhưng lại kết hiệp với nhau để theo một người ngay chính làm cho họ suy nghĩ hoặc gây phiền toái cho họ và tố cáo họ? Điều này có đôi khi xẩy ra cho bạn không? |
• What is the sense of this phrase today: “Give to Caesar what belongs to Caesar and to God what belongs to God”? | * Ngày nay đâu là ý nghĩa của câu này : “Hãy trả cho Cêsarê những gì thuộc Cêsarê và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa? |
7) Concluding Prayer | 7) Kinh kết |
Each morning fill us with your faithful love, we shall sing and be happy all our days; Show your servants the deeds you do, let their children enjoy your splendour! (Ps 90:14,16) | Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca. Ước gì chúng con là tôi tớ Chúa được thấy công trình Ngài thực hiện, và con cháu chúng con được thấy vinh hiển Ngài! (Tv 90, 14.16) |
Về Tác Giả và Dịch Giả:
Các bài viết Lectio Divina do nhóm tác giả; Lm. Carlos Mesters, O.Carm. Nt. Maria Anastasia di Gerusalemme, O.Carm., Lm. Cosimo Pagliara, O.Carm. Nt. Maria Teresa della Croce, O.Carm. Lm. Charlò Camilleri, O.Carm. Lm. Tiberio Scorrano, O.Carm. Nt. Marianerina De Simone, SCMTBG và Lm. Roberto Toni, O.Carm., Dòng Cát Minh biên soạn. Bản dịch tiếng Việt do Cô Martha Nhung Trần thực hiện. Tác giả và dịch giả giữ bản quyền.
http://ocarm.org/en/content/lectio/lectio-divina
http://www.dongcatminh.org/calendar-date
Lm. GB. Nguyễn Văn Thêm, SDB bổ sung phần Salêdiêng.
[1] Tv 82,1.
[2] Cv 4,32.