Cha tôi rất giỏi tiếng Pháp vì ham đọc sách và vì từ năm mười sáu tuổi đã làm việc với Pháp trong ngành Đường sắt. Ông đã giải thích cho tôi nghe: “Người Pháp có nền văn hóa đứng đầu thế giới. Về tư cách, họ xứng đáng với khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” của Tổ quốc họ. Tuy nhiên, không ai cũng giữ được cái chất này, bởi trong thực tế, có nhiều người mang bản chất tốt – xấu khác nhau trong cư xử”.
Cha tôi thường tỏ vẻ bất mãn trước sự hống hách của các quan Tây thực dân. Có lần, ông kể cho tôi nghe một chuyện lý thú xảy ra đúng vào năm chào đời của tôi. Câu chuyện như sau:
Trong thời Pháp thuộc, tàu hỏa có bốn hạng cho hành khách. Hạng nhất rất mắc tiền, dành riêng cho ngưởi Pháp. Hạng tư hay hạng chót là hạng rẻ tiền, còn gọi là “hạng thuộc địa” chỉ dành riêng cho dân nghèo bản xứ.
Hôm đó, cha tôi đang làm việc trong ghi-sê bán vé thì một ông người Pháp đến mua vé. Ông ta hỏi giá tiền mặc dầu bảng giá treo sờ sờ trước mặt. Cha tôi cảm thấy bực mình nhưng vẫn nhã nhặn trả lời. Ông cho biết giá tiền ba loại vé hạng trên mà người Pháp có thể chọn lựa.
Nghe xong, ông Tây tiếp tục hỏi:
– Thế giá vé hạng thuộc địa dành cho dân bản xứ là bao nhiêu?
– Thưa ông, bảy mươi xu.
Ông Tây lại hỏi:
– Thế tôi muốn gởi con chó của tôi đi thì mất bao nhiêu tiền?
– Thưa ông, nếu là chó berger thì ông phải trả chín mươi lăm xu.
Ông Tây cười một cách ngạo mạn:
– Sao lạ thế? Vé cho người bản xứ là bảy mươi xu, còn vé cho con chó đến chín mươi lăm xu. Người bản xứ không bằng con chó hay sao?
Nghe ông Tây vô cớ nhục mạ dân mình, cha tôi nóng mặt nên trả lời ngay:
– Thưa ông, đó là chuyện lạ nhưng chuyện khác còn lạ hơn. Giá vé cho một người Pháp là từ một đồng rưỡi đến hai đồng rưỡi. Nhưng gởi một con lừa thì mất đến bốn đồng hai mươi xu. Một con lừa giá bằng hai người Pháp!
Nên nhớ, đối với người Châu Âu, mắng họ là con lừa thì nặng hơn là con chó nhiều. Thế là cái ông người Pháp đó vội vã mua vé và đi một mạch ra sân ga.
Kể chuyện nầy cho tôi nghe xong, cha tôi liền kể về một lối ứng xử đẹp khác, như muốn dậy tôi về nhân phẩm và lối sống nhân bản cần có ở đời. Ông kể:
… Dạo trước, Sài gòn có hai nhà ga riêng biệt. Ga Hòa Hưng bây giờ được gọi là ga Sài Gòn hàng hóa chỉ dùng để lên và xuống hàng mà thôi. Tại trung tâm thành phố, gần chợ Bến Thành là ga Sài gòn Hành khách, tức là nơi hành khách lên xuống. Từ ga nầy ra khỏi thành phố có đến một chục cái cổng, nơi giao nhau giữa đường sắt và đường bộ. Cổng số một nằm ngay tại đường Frères Louis, sau đổi thành đường Võ Tánh, nay là đường Nguyễn Trãi. Đây là cổng có nhiều xe cộ qua lại nên vì an toàn, thì chỉ khi xe lửa đi qua rồi thì cổng mới được nâng lên.
Một hôm, cổng vừa hạ xuống thì trờ tới một chiếc ô tô mới toanh hiệu Citroen, rất sang trọng, với ghế nệm trắng tinh. Một thanh niên người Việt ngồi ghế trước với tài xế, vội vàng mở cửa xe, bước đến cổng nhìn, rồi quay lại nạt nộ ông già gác cổng:
– Cho người chận xe lửa lại và mở cổng cho xe ô tô qua trước, ngay lập tức.
Ông già lắc đầu. Người thanh niên nổi trận lôi đình, càng to tiếng hơn:
– Có mở ra cho nhanh không? Bộ muốn chết hả? Có biết ai trong xe không?
Ông già chẫm rãi đáp:
– Dù là quan Toàn quyền đi nữa thì tôi cũng chỉ mở cổng khi xe lửa đã qua, đó là luật lệ.
Nên nhớ, thời đó, Toàn quyền Tây phương lớn hơn Hoàng đế An Nam nhiều, nên câu trả lời của người gác cổng hèn mọn nầy vượt quá sức tưởng tượng của người thanh niên.
Trong xe, ngồi ở băng sau là một người Pháp. Qua cửa kiếng mở rộng, ông nghe và hiểu hết mọi lời đối đáp của hai người. Ông mỉm cười và tỏ vẻ hài lòng.
Chính ông là Quan Toàn Quyền Đông Dương thực sự!
Cha tôi kể tiếp:
– Ông già gác cổng không hay biết gì cả. Khi xe lửa qua rồi, ông mở cổng rồi thản nhiên quay vào nhà gác, thậm chí chẳng nhìn đến người ngồi trong xe. Vài ngày sau, thực bất ngờ, ông già nhận được một giấy khen của Phủ Toàn quyền, một món tiền thưởng khá lớn và một quyết định thăng trật cho ông già với con dấu và chữ ký của quan Giám đốc ngành Đường sắt Đông dương (CFI). Khi nhận được cùng lúc ba món nầy và biết lý do, ông già đáng thương suýt ngất đi vì vui mừng và vì sợ hãi.
Cha tôi còn kể nhiều chuyện khác nữa. Chính nhờ những chuyện nầy mà tôi hiểu hơn về thuật làm người và cố gắng tập sống sao cho xứng đáng phẩm giá làm người.
Võ Phá