
Dẫn nhập
Khắp mọi miền thế giới, trong bất kỳ quốc gia hay tôn giáo nào, “hình ảnh của năm nay” sẽ còn mãi in đậm trong tâm trí mọi người ấy là hình ảnh một cụ già, mặc áo trắng, hoàn toàn đơn độc trong quãng trường Roma rộng lớn vào buổi chiều mưa vào lúc hoàng hôn sắp rơi xuống ngày 27 tháng Ba năm 2020. Người cao niên đó chính là Đức Giáo hoàng Phanxicô; ngài chưa từng cô đơn như thế khi lãnh đạo cầu nguyện, nhưng đồng thời, ngài cũng không bao giờ được cả nhân loại cùng đồng hành như thế. Với cử chỉ này ngài nhắc nhớ thế giới chúng ta, được tạo nên do các chủng tộc, văn hoá, quốc gia và tôn giáo khác nhau rằng ngay cả những điều thảm hoạ và đau thương nhất, Thiên Chúa có thể dẫn đến điều thiện hảo. Và ngài mời chúng ta nhìn vào đức tin nghèo hèn của mình với lòng trắc ẩn.
Hẳn nhiên, điều chúng ta kinh nghiệm suốt 11 tháng qua quả là một thách đố mà chúng ta đã đối diện; chúng ta chẳng thể làm ngơ như thể không gì xảy ra hoặc như thể một cách nào đó nó thuộc về quá khứ rồi.
1. MỘT TRẠNG HUỐNG TOÀN CẦU THÁCH ĐỐ CHÚNG TA VÀ CHÚNG TA KHÔNG THỂ LÀM NGƠ
Tôi đã chẳng thể viết một trang của bài bình giải Hoa thiêng 2021 này bằng cách làm ngơ điều cùng lúc đã tác động đến toàn nhân loại trong mọi quốc gia. Chúng ta đang trải qua những lúc cực kỳ khó khăn; chúng ta kinh nghiệm một cái gì mà chúng ta đã chưa từng bao giờ tưởng nghĩ hay ngờ tới. Chúng ta có nhiều câu hỏi không được trả lời; chúng ta nghe những ngày người ta tuyên bố cơn dịch bệnh sắp chấm dứt đến nơi rồi, bất chấp sự kiện rằng không có sự chứng thực nào về điều này cả. Tất cả điều này đã xảy ra bởi vì COVID-19: một bệnh lây nhiễm gây ra bởi một virut cho đến nay nhân loại không biết đến.
Tính chất ngoại lệ của thời khắc hiện tại chạm đến chúng ta sâu xa. Sâu xa đến nỗi thậm chí không có một khủng hoảng xã hội, chính trị và kinh tế trong những thập niên mới đây đã gieo rắc nhiều sợ hãi trong thế giới như dịch bệnh này đã tạo ra. Sợ hãi, buồn khổ, thiếu an toàn, nước mắt, mất mát và tuyệt vọng chất đầy tâm hồn của kẻ giầu người nghèo, người nổi danh cũng như kẻ không được thừa nhận, cả cao niên lẫn trẻ tuổi. Hẳn nhiên, chúng ta đang giải quyết một trong những khủng hoảng toàn cầu lớn nhất trong 70 năm qua. Những quyết định mà các chính quyền cần phải làm sẽ ảnh hưởng tới toàn thế giới suốt một thời gian dài đang đến không chỉ về kinh tế song chính trị, văn hoá; nó ảnh hưởng tới chính khóe nhìn mà con người có được.
Suốt những tháng này chúng ta đã thấy rất nhiều cử chỉ tận tụy và hy sinh quảng đại. Giữa chúng, gợi nhắc đến những nhân viên lo về sức khoẻ xem ra thật chính đáng; họ làm việc đến kiệt lực với sự cam kết thật anh hùng; những người đảm bảo những dịch vụ cốt yếu cần thiết cho sự cùng chung sống trong xã hội; những người đã chăm sóc đến trật tự xã hội và một số chính trị gia, không phải tất cả, vốn ngay thẳng gánh vác trọng trách của mình với sự nhìn xa thấy trước, bỏ mọi thứ thù địch qua một bên.
Tuy nhiên, cũng có vài tình huống hổ thẹn được ghi dấu bởi ích kỷ, ở đó người ta không sẵn lòng chia sẻ những thông tin sức khoẻ hay thiết bị y tế, vì không hiểu rằng cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu này đòi hỏi và sẽ đòi hỏi một lời đáp trả toàn cầu.
Dù sao chăng nữa, những con số nói cho chính mình. Cuối năm 2020, có 80 triệu người bị nhiễm và 1.800.000 người chết. Ngoài ra, COVID-19 cho thấy khía cạnh tồi tệ nhất của nó – sự cô lập và chết trong sự cô đơn hoàn toàn, những trái tim tan nát của nhiều gia đình.
Hẳn nhiên, điều này làm lung lay nhiều sự chắc chắn ta đã từng giả định. Mọi quốc gia tìm cách để truyền cho người dân một cảm thức về sự an toàn. Ngôn ngữ họ dùng lại là những ẩn dụ chiến tranh. Họ nói: “Chúng ta hãy chiến đấu lại virut! Chúng ta sẽ thắng nó”. Những tháng trước tôi bị đánh động rất nhiều bởi sự kiện là nhiều thành phố trên thế giới khuyến khích người dân bằng những khẩu hiệu vốn tìm cách ngăn ngừa sợ hãi. Chúng ta tìm thấy những sứ điệp như sau:
Paddington Bear (con gấu đệm) ở Bristol gởi sứ điệp cho một nhà như sau: “Nghệ thuật tồn tại. Giữ mình an toàn”.
Ở Tokyo, “Cây chọc trời Tokyo (634m)” đưa ra một sứ điệp như sau: “Cùng nhau chúng ta sẽ thắng.”
Ở thành phố Mexico, khách sạn Barcelo bày ra một sứ điệp: “một Mexicô hiệp nhất sẽ chống cự và nổi dậy mạnh mẽ hơn.”
Ở thành phố Antwerp nước Bỉ ta có thể đọc sứ điệp này trên một nhà: “Điều này cũng qua thôi. Những lúc tốt hơn sẽ đến. Và chúng sẽ thật quang vinh.”
Ở Ontario, Canada, nhiều khách sạn gần Thác Niagra sử dụng ánh sáng trong các phòng để tạo ra những trái tim và sứ điệp hy vọng.
Ở Vancouver, một sứ điệp được sơn trên các bức tường của một cửa hiệu đã đóng cửa tại trung tâm thành phố nói: “Chúng tôi yêu Vancouver. Giữ cho an toàn. Kiên trì nhé. Sẽ mau trở lại. Hãy ở riêng và giữ kết nối. Chúng ta sẽ thành công. Chúng ta sẽ vượt thắng ngay cả điều này.”
Chắc chắn tôi kính trọng ghi chú mọi điều này. Không thể làm khác được. Nhưng tất cả điều đó xem ra là quá ít ỏi, cực kỳ ít ỏi, không đủ để hiểu, giải thích và ngay cả can dự đến tâm hồn và cuộc đời chúng ta. Tôi cảm nhận rằng chúng ta cần một điều gì sâu xa hơn, sống động hơn; chính nó mới cho phép chúng ta để cho điều chúng ta đang trải nghiệm hôm nay lắng đọng trong lòng mình và tái đảm bảo chính chúng ta tận bên trong; đàng khác, chúng ta đừng quên rằng có nhiều dịch bệnh khác, mặc dù không phải là tất cả, tiếp tục phát triển trong thế giới chúng ta và ảnh hưởng mạnh; song bởi lẽ chúng thật xa với chúng ta, nên chúng không tạo được nhiều ồn ào. Là những tín hữu và Gia đình Salêdiêng Don Bosco, chúng ta không thể làm ngơ hay lãng quên chúng. Tôi đang quy chiếu tới 32 cuộc nổi dậy chiến tranh vào thời điểm đó khi COVID-19 vẫn đang sống; tôi đang nói về mua bán vũ khí đã không bị tác động hoặc giảm bớt song còn gia tăng. Tôi đang nghĩ đến những tình trạng bệnh địa phương khủng khiếp khác không kém nặng nề như dịch bệnh ngày nay, mặc dù chúng không tác động đến nền kinh tế quốc gia và như thế không tính [đến nó]. Đức Giáo hoàng Phanxicô chí lý chỉ ra điều này qua những lời ngài ngỏ cho giới trẻ, nhưng cũng chạm tới những người lớn và đôi khi cả gia đình. Đức Giáo hoàng nói rằng người trẻ đang sống trong “những vùng chiến tranh và kinh nghiệm bạo lực dưới vô vàn hình thức: bắt cóc, tống tiền, tội ác có tổ chức, buôn người, nô lệ và khai thác tình dục, hiếp dâm thời chiến, và những thứ khác…. Hoặc bị cưỡng bức hoặc thiếu những chọn lựa, nhiều người trẻ sống bằng cách phạm tội ác và những hành vi bạo lực: binh lính trẻ em, băng đảng tội ác được trang bị, buôn bán ma tuý, khủng bố.”[1]
Và rồi tôi tự hỏi: “sự bình thường mới mẻ” này mà chúng ta nghe nói rất nhiều có nghĩa gì đây? Sau năm nay, điều gì sẽ còn lại với từng người chúng ta? Sẽ có một ào ạt điên khùng để khôi phục “thời gian đã mất”, một kinh tế đã mất? Có phải nó sẽ là một cơn ác mộng khủng khiếp, hay ngược lại trong nhiều người, trong cách xã hội được tổ chức sẽ có một điều gì tích cực đằng sau? Có phải “sự bình thường mới mẻ” đó thật sự mang lại điều gì mới, thay đổi một số điều để tốt hơn chăng?
Tôi không biết điều gì chờ đợi chúng ta, nhưng tôi cảm nhận rằng có một hành trình mà như Gia đình Salêdiêng, chúng ta có thể theo đuổi và sẽ làm cho chúng ta nhiều điều tốt, đang khi cùng lúc cống hiến sự đóng góp khiêm tốn của mình cho những người khác.
2. CHÚNG TA MUỐN NÓI GÌ KHI NÓI VỀ NIỀM HY VỌNG?
“Này, tôi đã tìm được điều này trong ít tháng qua: niềm hy vọng như dòng máu chúng ta: chúng ta không thấy nó nhưng nó cần phải ở đó. Máu là sự sống. Hy vọng giống hệt như thế đó: Hy vọng là điều luân chuyển bên trong, điều phải làm như thế, điều làm chúng ta cảm thấy sống động. Nếu không có nó, bạn chết, chấm dứt, chẳng có gì hơn để nói cả… Khi bạn không có hy vọng, thì như thể bạn không còn máu nữa… Bạn có thể vẫn toàn vẹn, nhưng bạn đã chết. Đúng là như thế đó.”[2]
Trong những tháng này, tôi thường nghĩ rằng lời giải thích chúng ta vừa nói lên trong lúc chúng ta phải trải qua không thể là như những lời giải thích khác được. Chúng ta không bị thúc đẩy bởi những lợi lộc của chuỗi xích khách sạn hay công ty hàng không. Không chút chối bỏ rằng xét theo đạo đức, điều tạo nên công ăn việc làm và cuộc sống tự nó tốt lành, song việc tái thiết du lịch hay sự gia tăng sản xuất không phải là tâm điểm của chúng ta. (Chúng tiếp tục bảo chúng ta phải bù lại gấp đôi đối với thời gian đã mất và vượt thắng những thụt lùi mà chúng ta kinh nghiệm).
Tuy nhiên, dẫu điều này có thể đúng, thì vẫn thiếu mất một điều gì đó trong khóe nhìn chúng ta, trong lời giải thích của ta và trong điều thúc đẩy và chuyển động chúng ta hành động. Chính vì thế, đối với tôi, rõ ràng chúng ta không thể bàn đến “điều đến sau”, không thể đối diện với “sự bình thường mới mẻ”, mà không sống trong niềm hy vọng. Không tương lai nào là tuyệt đối hay dứt khoát nếu nó chỉ tuỳ vào con người mà thôi. Nhân loại luôn dọi phóng và hướng tới một điều gì khác. Dường như điều đạt được thì luôn lên đường tới một cái gì mới mẻ. Chúng ta luôn khát khao một cái gì hơn và chúng ta luôn kỳ vọng.
Đây là lý do để tôi chọn chủ đề cho Hoa thiêng năm nay.
Vậy, hy vọng là gì? Chúng ta đang nói về điều gì khi chúng ta nói hy vọng? Chúng ta đang nói đến loại hy vọng nào?
Hy vọng là cái gì đó thu hút tôi. Có nhiều, rất nhiều văn sĩ suy tư về hy vọng từ những viễn cảnh rộng lớn.[3] Chúng ta có thể nói về hy vọng như một thái độ nhân bản. Chúng ta có thể nói về kỳ vọng, để kỳ vọng và hy vọng. Tôi không đi vào tất cả những khác biệt phức tạp đó – chẳng hạn, nếu chúng ta phải chú ý Thánh Toma Aquinô muốn nói gì bằng cách phân biệt giữa hy vọng như một đam mê, hy vọng và sức mạnh [hay tính hào hiệp], và hy vọng như một nhân đức đối thần; đây không phải lúc cũng chẳng phải chỗ cho điều đó. Điều tôi muốn nói là con người được gọi để hy vọng. Và dù muốn hay không, họ luôn cần phải chọn, với ít nhiều ý thức, giữa việc mở rộng tới một chân trời của sự sung mãn hay đóng kín chính mình trong những ranh giới của “những hy vọng” khả giác, loại [hy vọng] mà chúng ta có thể cảm và chạm đến.
Sự rộng mở tự nhiên này của con người để hy vọng thì không như nhau với niềm hy vọng Kitô hữu mặc dù nó thiết thân với chính căn tính của một người, nam hay nữ.
Giống như chúng ta nói trong triết học khi dùng nguyên lý của Descartes: “Tôi tư duy, vậy tôi hiện hữu”, chúng ta cũng có thể nói: “Tôi đang sống, vậy tôi hy vọng”. Bởi lẽ không có hy vọng, cuộc đời không là cuộc đời, nó thiếu ý nghĩa tự tại vì thực thế, cuộc đời con người không thể cưỡng lại sống trong tuyệt vọng, nói cách khác, “không có hy vọng”.
Tuy nhiên, hy vọng không chỉ là ước ao vì ước ao luôn hướng tới một cái gì cụ thể và xác định. Hy vọng không thể bị giản lược vào lạc quan suông mà mục tiêu của nó nằm trong những tính toán và tiên đoán một kết quả tích cực. Trái lại, hy vọng, hoàn toàn quan tâm đến con người và liên hệ đến tận hiến và tin tưởng. Thực vậy, con người là một dọi phóng và một khuynh hướng tới “một cái gì hơn mãi”, tới điều vượt quá những gì có thể tiên liệu, tới một cái gì thật sự mới mẻ.
Điều tôi miêu tả trên kia nói về một thế giới có nhiều dấu phi nhân. Tôi tin điều này thì không thể chối cãi và thật rõ ràng đối với mọi người. Chúng ta không muốn nó là thế, song thực tế thì đúng là như vậy đó. Tuy nhiên, chúng ta có thể sống với một thái độ khác ngay cả trong thế giới này với nhiều dấu phi nhân. Có những người sống bằng phàn nàn, tiêu cực, với trái tim cứng hơn đá. May thay, cũng có nhiều người cố gắng sống vì được thúc đẩy bằng một năng lực vốn dẫn họ đi tìm kiếm sự sống, cố gắng làm điều tốt nhất, tập trung vào việc sống bởi yêu thương và phục vụ (vốn chữa lành sự hoà hợp của họ), làm việc dưới sự thúc đẩy của niềm hy vọng. Khi chúng ta sống được thúc đẩy bởi niềm hy vọng chúng ta kinh nghiệm rằng tình yêu, sự phục vụ và một trái tim đầy nhân tính và ý nghĩa đối với một thế giới vẫn biết quá nhiều sự phi nhân. Từ quan điểm chúng ta, hy vọng đối với con người là một thành phần của tình yêu. Đây là điều thánh Phaolô nói khi thốt lên, trong bài thánh thi quý báu ngài gởi cho tín hữu Corintô, rằng tình yêu “hy vọng mọi sự” (1 Cr 13:7).
3. NHƯ CÁC TÍN HỮU TA CÓ THỂ MANG LẠI LỜI GIẢI THÍCH NÀO?
Chắc chắn trong ít tháng, dịch bệnh này sẽ chấm dứt. Nhưng “những dịch bệnh” khác vốn mang theo với chúng tai hoạ của sự phi nhân sẽ không biến mất với một vác-xin. Chắc chắn nghiên cứu dịch bệnh coronavirus và tìm ra một vác-xin là điều phải lẽ. Chẳng sớm thì muộn, sẽ có thôi. Chúng đang tới và chúng ta rất hạnh phúc vì điều ấy.
Nhiều câu hỏi nhức nhối đã được suy đi ngẫm lại trong nhiều tâm hồn suốt những tháng qua. Câu hỏi: mọi điều đã có đấy có ý nghĩa hay không. Nó là một câu hỏi hợp pháp và rất nhân bản. Thực tại chát đắng là đau đớn và tật bệnh thế giới ngày nay đang trải qua xem ra đẩy con người tới vấp phạm và phản kháng hơn là tới đức tin; tới hoài nghi hơn là tới phó thác tin tưởng. Nhưng dù sao, khi đối diện và cùng với tiếng khóc than của con người luôn có Thiên Chúa (đối với chúng ta là những kẻ tin).
Đức tin Kitô hữu liên lỷ cho thấy qua Thần khí, Thiên Chúa đồng hành với lịch sử nhân loại như thế nào, kể cả trong những tình huống đối nghịch và bất lợi nhất. Ngài là chính vị Thiên Chúa không đau khổ song đầy lòng xót thương (trắc ẩn), theo diễn từ rất đẹp của thánh Bênađô thành Chiaravalle: “Impassibilis est Deus, sed non incompassibilis” (Thiên Chúa không đau khổ nhưng Ngài không thiếu niềm xót thương từ ái).[4] Trong lịch sử cứu độ chúng ta đọc biết rằng Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ dân Ngài, nhưng vẫn luôn kết hiệp với họ, cách riêng khi họ tràn ngập nỗi đau. Thiên Chúa không rời bỏ chúng ta, Ngài chẳng bỏ đi, nhưng Ngài đau khổ trong và với những người đau khổ bởi vì sự tàn bạo này, và Ngài tiếp tục cứu độ giống như Ngài đã cứu độ qua rất nhiều người đã liều mạng sống vì người khác, nhiều người đã phục vụ và hiến mình cho người khác theo một cách chuyên nghiệp.
Trong suốt thời này, đối với nhiều người xem ra sự lặng lẽ của Thiên Chúa, Đấng chỉ can thiệp với tiếng gọi lặng thầm của tình yêu Ngài, thì không thể chịu được.[5] Nhưng đây là thực tại Thiên Chúa chân chính, Đấng tỏ tình liên đới khi đồng hành với chúng ta, khi làm cho chính mình nên gần gũi; không hề là hình ảnh về vị Thiên Chúa quyền lực can thiệp để thay đổi mọi sự cách “ảo thuật”.
Trái lại, chúng ta nói về Thiên Chúa, Đấng “đang làm mới mọi sự” (xem Kh 21:5), bởi vì đây là kế hoạch của Ngài. Nhờ vào công trình cứu chuộc của Chúa Con, nhân loại, cùng với các thụ tạo khác, đi vào sự sống khi bỏ lại đằng sau những tiếng rên xiết và đau khổ mà cuộc tạo dựng trước kia dẫy tràn song nay được đổi mới do Ngài can thiệp và tái tạo. Thật như thể chính Thiên Chúa mời con người nhìn vào điều Ngài đang hoàn thành trong lịch sử và Ngài sẽ làm cho thành tựu vào lúc cuối thời gian. Như những cộng đoàn Kitô hữu chúng ta được gọi để phân định hiện tại và giải thích hành động của Thiên Chúa khi Ngài giữ lời Ngài hứa trong Giao ước, rằng Ngài sẽ đồng hành với Dân Ngài (và từng người một) với sự hiện diện quyền năng của Ngài đối diện với sự dữ và đồng thời với sự hiền dịu đối với những ai tin tưởng vào Ngài.
Đối diện với điều này, chúng ta các tín hữu cảm thấy được đức tin vốn trở thành niềm hy vọng soi sáng. Như Giáo hoàng Bênêđictô nói: “Ơn cứu chuộc được ban cho chúng ta theo nghĩa rằng chúng ta được ban cho hy vọng, niềm hy vọng đáng tin tưởng, nhờ đó chúng ta có thể đối diện với hiện tại của mình; một hiện tại, mặc dù thật cheo leo, có thể được ta sống và đón nhận nếu nó dẫn tới mục tiêu, nếu chúng ta có thể chắc về mục tiêu này, và nếu mục tiêu này đủ vĩ đại để biện chính cho nỗ lực của hành trình.”[6]
Niềm hy vọng Kitô hữu có tính lịch sử và dựa trên sự tin tưởng sâu xa vào Thiên Chúa, vị Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Đấng không hề bỏ rơi dân Ngài và luôn luôn ở với Người.
Đó là một niềm hy vọng vượt qua bất kỳ cái gì vốn có thể làm thoả mãn những kỳ vọng nhân loại bị trói chặt vào cái “ở đây và bây giờ”, vào thời khắc hiện tại này, chỉ được nâng đỡ bởi những nguồn lực của chính chúng ta hay bởi những phương thế nhân loại và vật chất tuỳ chúng ta sử dụng. Niềm hy vọng chúng ta đang nói đến dựa trên lời Chúa hứa, và đây là đảm bảo tốt nhất của nó.
Niềm hy vọng chuyển động chúng ta, làm cho mọi niềm hy vọng bé nhỏ của nhân loại nên sinh hoa kết trái, cho thấy những giá trị lớn lao trong đó nhân loại đã đầu tư các năng lực tốt nhất của mình: chân lý, sự tốt lành, công bằng, tình liên đới, hoà bình, tình yêu, v.v.; chúng không biến thành không tưởng nhưng trở nên những hiện thực cụ thể và phiến diện của kế hoạch vĩ đại mà Thiên Chúa đã luôn chuẩn bị cho toàn nhân loại và trở nên dứt khoát trong Đức Kitô. Đây là niềm hy vọng lay động chúng ta.
Niềm hy vọng lớn lao, chân thật của con người vốn giữ vững bất chấp tất cả những nản lòng chỉ có thể là Thiên Chúa – Thiên Chúa yêu thương chúng ta và tiếp tục yêu thương chúng ta “tới cùng” cho tới khi tất cả “được hoàn thành” (x. Ga 13:1 và 19:30). Bất cứ ai được tình yêu lay động bắt đầu tri nhận “đời sống” thật sự là gì… bắt đầu tri nhận ý nghĩa của từ ngữ hy vọng.[7]
Một niềm hy vọng khả tín làm chúng ta sống trong sự chắc chắn rằng tương lai hoàn toàn được đảm bảo. Vì thế, hy vọng được liên kết với việc có Thiên Chúa ở với chúng ta. Niềm hy vọng như thế hoàn toàn thay đổi hiện tại, không chỉ bởi vì khi tương lai được biết đến như một thực tại tích cực thì hiện tại trở thành có thể kham nổi, nhưng bởi vì qua đức tin, tri thức về tương lai này thay đổi cách chúng ta sống. Sống với Thiên Chúa thì không như nhau với việc sống không có Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa mở ra một con đường ngay cả trong sa mạc đời sống, khi thách đố sự vỡ mộng và hoài nghi, sợ hãi và vỡ mộng. Chính vì thế niềm hy vọng thúc đẩy chúng ta, khiến chúng ta xin Thiên Chúa ơn ban đức tin, xin để tin tưởng Ngài, Đấng hoàn thành mọi sự trong mọi người, và tin tưởng những người khác.
Thời gian thử luyện như một thời gian chọn lựa[8]
Lời đáp trả tin tưởng đối với niềm hy vọng mà Thiên Chúa khơi dậy được dựa trên Tin mừng như quyền năng Thiên Chúa để liên lỷ biến đổi và canh tân đời sống.
Với loại ngôn ngữ trực tiếp của mình, Đức Giáo hoàng Phanxicô mời chúng ta “là những người của mùa xuân tươi sáng hơn là của mùa thu ảm đạm”.[9] Người Kitô hữu thấy thế giới mới đang kết “nụ” hơn là “những lá úa” trên các cành cây. Chúng ta không ẩn mình trong nỗi nhớ nhung và phàn nàn, bởi vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa muốn chúng ta là những người thừa tự một lời hứa và là những người không mệt nuôi dưỡng những giấc mơ. Với một đức tin chắc chắn vào Thiên Chúa Đấng “đến và can thiệp” [ad-viene và inter-viene].
Với cánh tay của niềm hy vọng Kitô hữu – với cánh tay của thập giá Đức Kitô – chúng ta ôm ấp toàn thế giới và không coi một điều gì hay một ai như bị lạc mất hay một thất bại.
Nhưng một vài câu hỏi tiếp tục là những câu hỏi hợp pháp: Chúng ta muốn là ai nào, đối diện với thực tại chúng ta được gọi để trải qua? Qua tất cả điều này, chúng ta muốn sống ra sao? Bởi lẽ chúng ta sẽ mất đi một cơ hội lớn nếu chúng ta không lợi dụng kinh nghiệm chúng ta trải qua, kể cả đau khổ.
Chắc chắn có nhiều người. Họ là những công dân và từ một viễn cảnh dân sự, có ý thức rõ ràng về nhân loại chúng ta song không có viễn cảnh đức tin nào; họ đang gắng sức khắc phục tình trạng này và khủng hoảng này. Hoàn toàn hợp pháp như vậy.
Nhưng giữa những người này cũng có chúng ta. Thế giới ngày nay cần chứng tá đời sống chúng ta; chứng tá của chúng ta tìm thấy ý nghĩa đời mình trong cuộc gặp gỡ Đức Kitô và trong Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô nhắc nhớ các tín hữu Ephêsô rằng trước khi họ gặp Đức Kitô, họ không “có hy vọng” và không “có Thiên Chúa trong thế giới” (Ep 2:12). Thánh nhân biết họ có các thần minh, đúng thế; nhưng niềm hy vọng không đến từ những thần thoại của họ. Bất chấp có các thần minh, họ không có Thiên Chúa.[10] Tuy nhiên, biết Thiên Chúa qua Con Ngài có nghĩa là nhận được một niềm hy vọng đối với họ, và nó cũng muốn nói điều đó cho những người nam nữ ngày nay. Điều này là vì đức tin trở thành hy vọng, “Đức tin là niềm Hy vọng”.[11]
Nhãn quan đức tin trong cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu Kitô là điều làm cho cách chúng ta nhìn vào đức tin, cách chúng ta cảm nhận nó trong lòng chúng ta thành khác biệt. Do vậy, cách làm nên những quyết định và phân định điều gì có giá trị và không có giá trị được ghi dấu bởi cuộc gặp gỡ giữa ngôi vị-với-Ngôi Vị. Chính vì thế, một thần học gia suy tư rất nhiều về niềm hy vọng, như J. Moltmann, đã nói rằng “khi đức tin được biến thành hy vọng, nó không làm cho ta yên phận, nhưng khiến chúng ta không yên, không làm chúng ta nên nhẫn nhục nhưng bất nhẫn. Thay vì đồng hình dạng với thực tại ban sẵn, họ bắt đầu chịu khổ từ đó và chống lại nó.”[12]
4. MỘT CÁI NHÌN VÀO CỘI NGUỒN CHÚNG TA VÀ NHIỀU CHỨNG NHÂN ĐỨC TIN TRONG GIA ĐÌNH CHÚNG TA
Khi nhìn vào Don Bosco trải nghiệm cuộc đời, chúng ta trở nên ý thức rằng niềm hy vọng là một cây có gốc rễ sâu xa đã bắt đầu từ lâu rồi; những gốc rễ đã trở thành mạnh hơn qua những mùa khó khăn và những đường lối vốn đòi hỏi nhiều hy sinh.
Đây là trường hợp từ những năm thơ ấu của Gioan tại Becchi, mất cha, và với mẹ Magarita phải đối diện với những thời đói kém và tất cả những vấn đề của đời sống chung tại gia.
Khi cậu có được niềm hy vọng rất nhân loại vốn có thể là một tương lai cho mình, niềm hy vọng đó, cậu hằng mơ tới, đó là có thể tin tưởng cha Calosso trợ giúp và che chở; nhưng bỗng vị cha xứ già đó chết, nó phá huỷ niềm hy vọng của cậu nhỏ Bosco. Lúc 12 tuổi, gia cảnh và sự dưỡng dục chăm chú và nhạy cảm của một người mẹ vốn tìm điều tốt nhất cho con mình – mặc dù cõi lòng mẫu tử tan nát vì đó – khiến Gioan trở thành một người di dân.
Nhưng chính trong những hoàn cảnh này mà lời nói và còn hơn nữa gương sáng của mẹ ngài đã mở mắt Gioan tới một chân trời rộng lớn hơn; nó làm cho cậu có thể nhìn lên cao và tới phía trước.
Cũng lại giống như vậy vào lúc quyết liệt khi cậu chọn lựa ơn gọi; lúc đó mẹ Magarita xin con mình đừng lo lắng về bà và tương lai của bà và không bao giờ gắn bó lòng mình với những sự an toàn trần gian: “Nếu con quyết định trở thành linh mục triều và chẳng may con trở nên giầu có, mẹ sẽ chẳng bao giờ thăm con dù chỉ một lần. Con hãy nhớ kỹ đấy!”[13]
Những năm sau chính Don Bosco, khi nhìn lên Đấng chịu đóng đinh, sẽ hồi sinh cõi lòng của người mẹ nản chí, mệt mỏi của mình, khi thắp lại nơi bà niềm hy vọng vốn khiến bà ở lại trung thành cho đến chết đối với sứ mệnh mà bà sớt chia với con mình từ những buổi đầu của Nguyện xá tại Valdocco.
Niềm hy vọng được đâm rễ mạnh mẽ này quá cần thiết cho mọi sự mà Don Bosco kinh nghiệm và ngài biến nên thực tại từ khi ngài ở Turin cho đến hơi thở cuối cùng.
Người ta cứ xem quả thì biết cây đó. Đường lối trong đó cuộc đời của rất nhiều người trẻ được làm cho chỗi dậy từ những tình trạng bị bỏ rơi và tuyệt vọng tới độ đạt được sự thánh thiện, cho thấy niềm hy vọng đã cư ngụ biết bao trong cõi lòng của Don Bosco; chính từ sự phong phú này, ngài vươn ra tới và biến đổi cuộc đời của những kẻ ngài gặp.
Ngay cả trong những năm lao động miệt mài nhất, Don Bosco không bao giờ là một anh hùng cô độc. Ngài luôn có bên cạnh mình Đấng làm hồi sinh ngọn lửa đức tin, cậy, mến nơi ngài. Đấy là một loại đồng hành “ở dưới đất cũng như trên trời”. Đối với ngài, sự tin tưởng vô hạn vào Đức Maria cũng liên lỷ nuôi dưỡng niềm hy vọng. Sự tin tưởng này càng được diễn đạt trong những sự nghiệp không thể được theo cách nhân loại – chúng ta nghĩ tới việc xây dựng Vương cung Thánh đường Mẹ Phù hộ các Giáo hữu và khởi sự truyền giáo ở Nam Mỹ – thì Don Bosco càng là người thứ nhất “nhìn thấy phép lạ là gì”.
Tin rằng luôn có một điểm có thể tiếp cận được điều thiện nơi mọi tâm hồn, nơi những kinh nghiệm đời sống của mọi người, ngay cả những người mà xem ra là ngoài cuộc, là kết quả của việc sống hợp với trời cao, nhưng cũng là kết quả của kinh nghiệm đồng hành và chăm nom cơ bản mà Don Bosco linh mục đã tích lũy ở dưới trần. Chính ở trường của cha Cafasso mà Don Bosco học sánh bước bên những kẻ tuyệt vọng nhất, trong các ngục tù và trong những khu nghèo nhất của Turin lúc đó. Đây là cách Don Bosco không chỉ “học để là một linh mục”[14], nhưng để trở nên mục tử của đàn chiên đó với cõi lòng như của những người thợ gian khổ gieo vãi niềm hy vọng, những người bước đi với ngài trên cùng những đường phố vùng ngoại vi nghèo khổ nhất của Turin: Cafasso, Cottolengo, Murialdo. Niềm hy vọng được đào luyện và được đào luyện cùng nhau: nó là kết quả sự hiệp thông của các thánh ở “dưới đất cũng như trên trời.”
Có một thời khắc trong lịch sử Nguyện xá mà đơn giản chúng ta phải gợi nhắc đến bởi vì nó rất gần với sự khó khăn có tầm vóc thế giới mà tất cả chúng ta thấy mình bị ngập chìm trong đó vì đại dịch này. Vào cuối tháng Bẩy năm 1854, dịch tả bùng phát ở Turin. Chúng ta biết câu chuyện ấy vì thế không cần lặp lại nó ở đây. Viễn cảnh đức tin và thực hành đức ái, kể cả một cách anh hùng, đâu có phải là một nhân đức tư riêng, một đặc tính chỉ thuộc về Don Bosco hay một ít loại người siêu quảng đại; nó là một phong thái sống của cộng đoàn giáo dục nhỏ bé đó. Hy vọng là một nhân đức cộng đoàn, một nhân đức được nuôi dưỡng qua gương sáng hỗ tương và qua sức mạnh của sự hiệp thông huynh đệ. Đây cũng là chứng từ của Nguyện xá Valdocco trong nạn dịch tả đó, giống như kinh nghiệm của nhiều cộng đoàn giáo dục và mục vụ trong thời COVID, và ở hàng tiền tuyến là cộng đoàn các y bác sĩ và những người thợ chăm lo sức khỏe vốn đã trao ban và tiếp tục trao ban đời sống mình để cứu nhiều mạng sống của những người khác.
Những thời khắc khủng hoảng như thế này làm lộ ra một nét khác của niềm hy vọng như Don Bosco đã sống nó. Ngài vững vàng tin vào Chúa Quan phòng. Một đức tin và tin tưởng đã càng lớn lên khi năm tháng qua đi. Nó là sợi chỉ chạy xuyên suốt cuộc đời ngài và qua mọi sự ngài trao hiến mạng sống. Có lẽ nó là cách hữu hình nhất trong đó người ta có thể chiêm niệm “một sự hòa hợp tuyệt diệu của bản tính và ân sủng” nơi ngài:[15] điều ngài tin trong lòng chuyển thành những quyết định và chọn lựa hằng ngày, khi khai mở những lối đường hy vọng cho nhiều người trẻ ngay cả khi dường như đi vào ngõ cụt.
Rất nhiều chứng từ khác của đức cậy
Chúng ta tìm thấy những gương sáng giá trị và khuôn mẫu đời sống trong sự thánh thiện Salêdiêng; chúng khích lệ chúng ta hy vọng như một nhân đức và thái độ sống trong Thiên Chúa. Hãy cho tôi quy chiếu nhanh gọn đến một vài chứng nhân.
Hội viên Chân phước Stephanô Sandor (1914-1953): cống hiến cho chúng ta một gương thật sự về việc chuyển vận từ chia rẽ tới hiệp nhất và rồi tới hiệp thông có nghĩa là gì. Cảm thức ơn gọi mạnh mẽ của thầy như một Salêdiêng sư huynh khiến thầy làm một chọn lựa thật sự trong việc bảo vệ sự sống; thầy sâu xa tin rằng đời mình phải được sống giữa dân chúng và văn hóa của họ, vốn đang trải qua những thời khắc bất ổn và tiêu điều. Thái độ ngay chính của thầy khôi phục viễn cảnh của chúng ta về “việc học biết để ở lại như thế nào” với cánh đồng sứ mệnh chúng ta hầu soi sáng những người liều mất niềm hy vọng, hầu kiện cường những người cảm thấy họ đang sa ngã, và để là một dấu chỉ của Thiên Chúa Tình Yêu khi ngài “xem ra” vắng bóng khỏi lịch sử. Chân phước Stephanô khắc phục những bức tường được sự chia rẽ giữa các dân tộc tạo nên cũng như sự nô lệ cho chủ nghĩa độc tài ý thức hệ, khi đi ra để gặp gỡ những người khác và vượt thắng tất cả nỗi sợ hãi đủ loại nơi cá nhân hay xã hội.
Câu chuyện của Chân Phước nữ tu Madalêna Moranô (1847-1908) là một câu chuyện tuyệt đẹp. Chị nổi bật như một người Con của Mẹ Phù hộ vì một sự liều lĩnh tông đồ vốn làm cho chị nên điều mà Don Bosco luôn muốn từ các nữ tu của mình theo tinh thần Mornese: là những đền đài sống của Đức Nữ Trinh. Như “một cô giáo bẩm sinh”, chị biết rằng hành vi giải phóng trong sứ mệnh Salêdiêng của mình có nghĩa là dạy các thiếu nữ của mình mở ra những biên cương của lòng trí hầu siêu việt những ranh giới hạn hẹp của văn hóa nghèo khổ bóc lột và thiếu cơ hội. Chị biết làm thế nào để dạy phải kiên trì và không nhượng bộ những đe dọa; sức mạnh nữ tính của chị trở thành sự diễn đạt hiền hậu nhất và thuyết phục nhất về trách nhiệm mà chúng ta có đối với những anh chị em chúng ta bị tổn thương. Như một giải đáp cho những lúc tai họa chị phải chịu, chị chỉ ra những hướng mới cho những kẻ bị đe dọa bởi sự cô lập và dạy cho họ sự thiện hảo của Thiên Chúa thật là mênh mông.
Nơi Đầy tớ Chúa cha Charles Braga (1889-1971) chúng ta tìm thấy một gương lành về trí thông minh mục vụ, dù nó ở trong sự hiến thân không mỏi mệt cho truyền giáo hay trong việc ngài đồng hành với các phần tử của Gia đình Salêdiêng. Không nản lòng, nhưng với niềm hy vọng của những người đặt đức tin vào Chúa Kitô, ngài có được sự kiên nhẫn mà Don Bosco khuyên rất nhiều để biết làm thế nào đồng hành với người trẻ khi chúng xây dựng một nhân cách trưởng thành. Sự kiên nhẫn này là hoa trái của tình yêu vốn chảy tràn lan trong trái tim truyền giáo của ngài, làm cho ngài có thể xây những cây cầu hơn là những rào chắn giữa các văn hóa. Tiếng gọi ngài cảm nhận để cổ xúy sự hiệp nhất giữa con người giúp ngài vượt thắng những khác biệt vốn có thể nảy sinh giữa những người khác, vì thâm tín rằng ngài luôn được ơn Chúa nâng đỡ để khai sinh một nền văn hóa gặp gỡ.
Một gương sáng giá trị khác là Chân phước Giuse Kowalski (1911-1942). Ta cần đức tin và can đảm biết bao để trao ban hòa bình cho những người khác ngay cả khi ngài phải cống hiến cho người khác không gì khác hơn là mạng sống mình! Tình yêu hiến lễ của Đức Giêsu khi dâng mình cho nhân loại trao ban cho chúng ta gương tình yêu vĩ đại nhất. Nó được vang dội sâu xa bởi Giuse Kowalski: một hội viên vốn là chứng nhân cho bình an giữa chiến tranh; ngài là sự thanh thản giữa những hỗn độn, là xót thương giữa hận thù.
Đầy tớ Chúa Antonio Baglieri (1951-2007) là một khuôn mẫu khác. Lối đường tới sự thánh thiện thường đòi phải thay đổi các giá trị và khóe nhìn. Đây là con đường được Nino trải nghiệm; sau khi đau khổ nhiều, ngài khám phá cơ hội lớn lao để được tái sinh vào sự sống mới nơi thập giá. Nino luôn được người mẹ đồng hành. Bà luôn yêu thương và nhân hậu tin tưởng con mình và cuộc đời nhiều tài năng của con mình. Cậu cũng được những bạn bè tu sĩ và giáo dân vây quanh; họ nhắc nhớ cậu về vẻ đẹp hiệp thông. Cậu để cho chính mình được cộng đoàn chạm đến, cộng đoàn vốn kiện cường cậu, cả trong nhân cách lẫn trong đức tin của cậu và cứu độ cậu. Cậu hiểu rằng bằng cách để cho mình được người khác gặp gỡ cậu khám phá mình là ai và trao ban ý nghĩa cho cuộc sống mình, hoàn toàn được ghi dấu bởi lòng Chúa xót thương – ngay cả từ giường bệnh của mình – để là người “thợ lành nghề của hòa bình và niềm vui”.
Những người này và nhiều người khác nữa là những vị khổng lồ của đức tin vốn sống một cuộc đời bác ái và hiểu có niềm hy vọng có nghĩa là gì trong tất cả ý nghĩa của hạn từ đó. Những người đó hy vọng và họ biết rằng mình không bước đi một mình; họ cũng biết rằng mình cần những người đồng hành và hướng dẫn họ trên con đường này. Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI diễn tả điều này rất đẹp: “Những ngôi sao chân thật của cuộc đời chúng ta là những người sống cuộc đời tốt lành. Họ là những đèn sáng của hy vọng. Chắc chắn Đức Giêsu Kitô là ánh sáng thật, là mặt trời mọc lên trên tất cả mọi bóng đêm lịch sử. Nhưng để đạt tới ngài, chúng ta cũng cần những ngọn đèn cận kề – những người tỏa sáng với ánh sáng của ngài và như vậy soi dẫn chúng ta trên đường.”[16]
5. LỜI GIẢI THÍCH SALÊDIÊNG VỀ THỜI KHẮC HIỆN TẠI
Đây là thời đại chúng ta. Đó là thời đại Chúa ban cho chúng ta để sống. Tự hỏi đâu phải là cách thức tốt nhất để giải quyết thời kỳ hậu dịch bệnh quả là thích hợp nhất. Và có lẽ cũng thích hợp để khám phá giá trị của niềm hy vọng vào lúc mà đa số người đang kinh nghiệm sự sợ hãi hay chỉ không thể chờ đợi thời khắc sắp đến khi họ có thể quên điều gì đã xảy ra năm nay. Nhưng liệu chúng ta có thể thật sự quên được điều đã xảy ra không, quên được những gia đình đã mất đi những người thân yêu không? Quên hầu như hai triệu nạn nhân ư? Quên những khuôn mặt của những kẻ yếu đuối nhất trong xã hội chúng ta ư? Quên bao người đã làm việc trên chiến tuyến sao? Quên mọi sự này liệu có chính đáng không? Không. Chắc chắn không. Thực vậy, đó là điều tệ nhất chúng ta có thể làm. Vậy, chúng ta tự hỏi xem điều chúng ta đang trải qua có thể dạy mình điều gì không, và xem chúng ta có sẵn sàng thay đổi một điều gì không, sẵn sàng suy nghĩ lại về những giá trị hay những quan điểm về cuộc đời không.
Chúng ta hy vọng rằng sự giam hãm mà chúng ta kinh nghiệm sẽ giúp chúng ta rộng mở chính mình.
Chúng ta liên lỷ chuyển động, luôn vội vàng đáp lại mọi sự thường theo một nhịp điệu cuồng loạn. Đột nhiên, “sự lặng lẽ bó buộc” xen vào đường ta đi, và có lẽ nó đóng kín chúng ta một chút vào chính mình, trong nhà mình, gia đình mình, trong sự cách ly bó buộc nhưng thiết yếu. Nhiều loại sợ hãi xuất hiện: sợ người khác, cách riêng sợ những người gần bên hay không quá xa; sợ lây nhiễm đến từ người biết ở đâu sự bất trắc lớn lao nhất phát sinh và gây ra.
Chính vì thế, “rộng mở” phải là điều số một. Hãy rộng mở không gian, khung cảnh, cửa sổ cho sự sống. Mở rộng chính mình để gặp gỡ người khác. Hãy bỏ đi mọi sự đóng kín chúng ta lại, khôi phục ý nghĩa của sự rộng mở chúng ta, sự rộng mở tâm hồn chúng ta. Hãy khôi phục tầm nhìn về một chân trời rộng lớn hơn.
Từ việc tăng trưởng chủ nghĩa cá nhân tới tình liên đới và hiệp thông lớn hơn.
Ấn dấu của Thiên Chúa trên nhân loại đặc biệt hiển nhiên trong khả năng vươn ra tới những người khác trong một hành vi liên đới với tạo dựng của ngài. Sự ích kỷ là hành vi đối nghịch, bởi vì nó tìm thỏa mãn chính mình, khiến chúng ta chỉ quy chiếu đến mình, khai sinh và nuôi dưỡng văn hóa cá nhân chủ nghĩa ngày một lớn lên; văn hóa ấy kết tận ở việc tỏ lộ rằng chúng ta nhỏ bé biết bao. Trong nạn dịch chúng ta hẳn ý thức rằng chính mình cũng dễ bị thương, mỏng dòn và lệ thuộc. Tất cả chúng ta. Không chỉ một ít người đâu. Dưới cùng mối đe dọa có tính tập thể, không thể tưởng nghĩ và chân thành, tất cả nhân loại cảm nhận cần đến người khác. Chúng ta sống cần đến nhau, cần chăm sóc lẫn nhau. Chúng ta không muốn sống cô đơn. Ước gì thời gian này dạy chúng ta trông cậy hơn vào tình liên đới và hiệp thông khi đối diện với “virut chủ nghĩa cá nhân”. Đức Giáo hoàng Phanxicô đúng biết bao! Tình liên đới là sự chiến thắng tuyệt nhất trên sự cô đơn. “Tình liên đới tìm thấy sự diễn tả cụ thể trong phục vụ, vốn có thể mang lấy nhiều hình thức khác nhau khi nỗ lực chăm sóc cho kẻ khác. Và phần lớn, phục vụ có nghĩa là “chăm sóc cho sự thương tổn, cho những phần tử bị tổn thương của gia đình, xã hội chúng ta, của dân chúng.” Khi cống hiến sự phục vụ như thế, cá nhân học để “đặt ra bên lề những ước nguyện và ao ước của riêng mình, sự theo đuổi quyền lực của mình, trước cái nhìn cụ thể đến những người vốn dễ tổn thương nhất… Sự phục vụ luôn nhìn tới những khuôn mặt của họ, chạm tới thân xác của họ, cảm nhận họ gần gũi và ngay cả, trong một số trường hợp, “đau khổ” sự gần gũi đó và gắng sức giúp họ. Sự phục vụ không bao giờ mang tính ý thức hệ, vì chúng ta không phục vụ những ý tưởng, chúng ta phục vụ những con người.”[17] Có nhiều người chờ đợi nụ cười, lời nói và sự hiện diện của chúng ta.
Chuyển từ sự cô lập sang nền văn hóa gặp gỡ
Chắc chắn, đi ra khỏi sự cô lập của chính mình quả không dễ gì, nhất là khi chúng ta nghĩ sự cô lập là một giá trị. Thực vậy, giữ mình cô lập kể cả từ nỗi sợ gần gũi người khác thường dễ dàng hơn. Nhưng trong cõi lòng con người bùng lên ngọn lửa vốn nhen lên sự tuyệt đối cần phải ở cùng nhau: trong gia đình, với bạn bè, trong hiệp hội địa phương, trong một nhóm thiện nguyện, với bạn học, với đồng nghiệp làm việc, với đội bóng. Thời gian thương tổn này cống hiến cho chúng ta không gian dành cho những loại thương cảm mới và tái kết nối mới. Đó là “nền văn hóa gặp gỡ” người khác đúng như người khác. “Sự cô lập và co rút vào tư lợi riêng mình không bao giờ là con đường để khôi phục niềm hy vọng và mang lại sự canh tân. Đúng hơn, nó là sự gần gũi; nó là nền văn hóa gặp gỡ. Cô lập, đừng bao giờ. Gần gũi, đúng; xung đột văn hóa, không; văn hóa gặp gỡ, phải.”[18]
Từ sự chia rẽ đến sự hiệp nhất và hiệp thông lớn lao hơn.
Từ viễn cảnh này chúng ta ý thức rằng không thể khai sinh nền văn hóa gặp gỡ mà không bảo vệ sự hiệp nhất; cùng một sự hiệp nhất mà Thần khí Thiên Chúa ban cho những ai đi vào hiệp thông với Ngài. Nó hiệp nhất chúng ta và thúc đẩy chúng ta sống cùng tiếng gọi ấy: tiếng gọi là con cái dấu yêu của Thiên Chúa. Một bài học chúng ta học được từ kinh nghiệm cay nghiệt của sự cô lập, của việc hành trình xa cách trong con thuyền cuộc đời bởi vì khóa chặt những biên cương (địa lý và ngay cả thiêng liêng), đã cho phép chúng ta ý thức rằng cuối cùng “chúng ta đều đồng hội đồng thuyền”. Chúng ta được hiệp nhất bởi chúng ta là nhân loại. Song, một nhân loại đã bị tác động. COVID là cuộc khủng hoảng đầu tiên để đánh vào mọi người rộng khắp thế giới chẳng phân biệt ai. Một nghịch lý lớn lao: một con virút tạo nên chia rẽ qua nỗi sợ nay mang chúng ta lại với nhau, thúc đẩy chúng ta quan tâm lẫn nhau. Nó hiệp nhất chúng ta trong một sự cảm thương được tạo nên bởi lòng vị tha, tình liên đới, mối quan tâm. Rất nhiều diễn đạt về thiện ích chung và, chúng ta hy vọng, về sự cảm thương và nhân hậu. Nó cũng mang chúng ta lại với nhau trong việc tìm kiếm những giải pháp. Và có lẽ sự ích kỷ và chia rẽ mới là một căn bệnh cổ xưa hơn và nguy hiểm hơn COVID nhiều, một căn bệnh đã hiện hữu từ xa xưa và phải được thuyên chữa. Tôi hy vọng rằng với vac-xin sẽ có để trị virut [corona này], chúng ta cuối cùng có thể tiêm chủng chính mình chống lại thiếu hiệp thông, đạt được chiến thắng trên sự chia rẽ. Điều hiệp nhất chúng ta là phương dược của Tin mừng hy vọng và niềm vui vốn làm chúng ta nên nhân bản hơn và thành con cái Thiên Chúa.
Từ sự nản chí, rỗng tuếch và thiếu ý nghĩa đến sự siêu việt
Từ việc tuyên cáo rằng “chúng ta là những ông chủ tuyệt đối của đời mình và của mọi sự hiện hữu”, chúng ta đi tới cảm nhận rằng chúng ta cực kỳ mỏng dòn. Nhiều gia đình đã tìm thấy cần phải sáng tác hàng ngàn câu chuyện khác nhau để giải thích cho trẻ em tại sao chúng phải ở nhà, xa cách khỏi ông bà, bạn học và hàng xóm láng giềng, không thể đi nghỉ hai tuần hay 20 ngày. Tôi gợi nhớ hình ảnh trong phim “cuộc đời đẹp sao” (1997); trong phim đó, giữa một tình trạng không may nhất là họ đang ở trong trại tập trung, một người cha (Benigni) sáng chế một trò chơi để biện chính họ đang trải qua điều gì cho đứa con nhỏ của mình. Trò chơi đó đã cứu ông. Thời gian trống rỗng thật tác hại. Chúng ta đã chuyển vận khỏi nhiều sự chắc chắn tới sự bất trắc của một địa hình bất ổn và không an toàn. Một sự trống rỗng vốn khác xa với những ý thức hệ hư vô và dù sao chăng nữa, nó mở rộng chúng ta tới nhu cầu cho sự siêu việt.
Lúc này, Chúa nói với chúng ta. Ngài đang xin ta điều gì đây? Ngài đang ban cho ta điều gì? Chúng ta đón chào nó ra sao? “Giữa bão tố này, bề mặt của những bản mẫu rập khuôn mà với chúng, chúng ta ngụy trang bản ngã của mình, luôn luôn lo đến những vẻ bề ngoài, đã rớt xuống, bộc lộ một lần nữa cái ý thức tốt lành và không thể tránh khỏi rằng chúng ta thiết thân với nhau, chúng ta là anh chị em của nhau.”[19] Vậy, chúng ta đây này: Trong những tình huống cực độ Thiên Chúa tiếp tục nói cho chúng ta qua các tâm hồn của những người vốn nhìn thấy và đáp lại theo một cách thức độc đáo, khác biệt, một cách thức tạo nên khác biệt.
Bởi sức riêng mình chúng ta không được cứu. Không ai được cứu riêng mình
“Thảm kịch có tầm vóc thế giới như nạn dịch COVID-19 trong giây lát hồi sinh cảm thức rằng chúng ta là một cộng đoàn toàn cầu, tất cả trong cùng một con thuyền, ở đó những vấn đề của một người là những vấn đề của mọi người. Một lần nữa chúng ta ý thức rằng không ai được cứu độ một mình; chúng ta chỉ có thể được cứu cùng với nhau. Như tôi đã nói trong những ngày đó, “bão tố đó phơi trần tính dễ bị tổn thương của chúng ta và lộ ra những xác tín sai lầm và dư thừa mà quanh đó chúng ta đã kiến trúc lịch trình hằng ngày, những dự phóng, thói quen và ưu tiên của chúng ta… Giữa cơn bão này, vẻ bề ngoài của những bản mẫu in sẵn mà chúng ta đã ngụy trang bản ngã chúng ta, khi ta luôn lo đến dáng vẻ bề ngoài, đã rơi rụng xuống, vì một lần nữa nó tỏ lộ cái ý thức tốt lành và không thể tránh khỏi rằng chúng ta thiết thân với nhau, chúng ta là anh chị em với nhau.”[20]
Đã qua rồi cái thời dành cho niềm tin rằng chúng ta có thể làm mọi sự với những nguồn lực của riêng mình, tự mình làm mọi sự, như “những gả khổng lồ phù du” mà đối với các gả đó không gì là không thể được.
Chúng ta phải vượt thắng chủ nghĩa ái kỷ giả tạo. Nó khiến chúng ta thâm tín rằng vũ trụ cúi mình trước chúng ta, khi lừa dối chính mình rằng chúng ta có “siêu quyền lực” trên mọi sự và mọi người… Vì bệnh dịch này, chúng ta học biết mình dễ tổn thương biết bao; chúng ta cần nhau biết mấy và riêng một mình chúng ta chẳng là gì cả. Chúng ta khám phá rằng người lân cận bên kia đường thật quan trọng: chào hỏi mọi người chúng ta gặp; xóa tan sự vô danh và tin vào cái “chúng ta” như thật thiết thân với tôi, vì không có họ chúng ta không thể sống. Những người khác là “cái tôi” được biến cách như “chúng ta”, lệ thuộc nhiều hơn vào sự giầu có của nhân loại khi chia sẻ những giá trị về vẻ đẹp và đời sống. Chúng ta hãy từ bỏ những nỗi sợ hãi. Chúng ta hãy kiến tạo các mối liên kết. Chúng ta hãy tăng trưởng. Chúng ta hãy ngừng chống lại người khác bởi vì họ là người khác, khác biệt, xa lạ, v.v…. Chúng ta hãy bắt đầu từ cái “chúng ta” vốn liên kết nhiều người và những người khác biệt với cái đặc thù, phong phú, độc đáo, không lặp lại được và đẹp đẽ vốn thuộc về từng người, từng người chúng ta, quý báu như chúng ta trong chính mình.
Chúng ta không thể sợ hãi tái khám phá tình huynh đệ vốn kết hiệp chúng ta như con cái Thiên Chúa, được yêu mến nhiều trong Chúa Con (x. Ep 1:5). Bởi vì điều này, chúng ta hiểu tình liên đới, huynh đệ, sự chăm sóc cho người khác, kính trọng giá trị đời sống, phẩm giá nhân vị, chân lý về người khác mà nay hơn bao giờ hết là một nhân đức. Chúng ta quá quý giá để nhượng bộ sự ích kỷ trống rỗng của một căn bệnh được gọi là sự dửng dưng, và cho sự chiêm ngắm chính mình hay quy chiếu đến chính mình. Cách riêng về những người trẻ thân yêu của chúng ta, họ là “bụi gai bốc cháy”, là “đất thánh” cứu chúng ta. Chính họ là niềm hy vọng lớn lao của chúng ta, dọi phóng chúng ta tới một tương lai chung với nhiều gương về chia sẻ và những dự phóng chung: tán trợ tạo thành và môi trường, tán trợ ngôi nhà chung của chúng ta, và sự công bằng, tự do; hòa bình và tình hiệp thông phổ quát.
Ta cần những đáp trả mới. Một cuộc đời can đảm mang đến một cái gì thật sự mới. Sau cùng để là như Don Bosco ngày nay, khi bệnh dịch được gọi là “Coronavirus” nhất thiết phải đi, phải đi ra, phải là một sự hiện diện và một câu trả lời.
Hơn bao giờ hết: sự hiện diện là chứng tá!
Điều đó thật đúng: hơn bao giờ hết, ta cần sự hiện diện và chứng nhân. Sự hiện diện của chúng ta, và niềm vui như một chứng từ, đến từ đức tin chúng ta vốn “hy vọng”, bởi vì “đức tin và niềm hy vọng cùng tiến tới với nhau”.[21]
Và điều này cách riêng đối với giới trẻ, những người mà chúng ta không thể bỏ họ một mình (bây giờ hơn bao giờ hết!): chúng đang đợi chúng ta với đôi tay rộng mở hầu chúng ta một lần nữa có thể sống cuộc đời chúng, với sức mạnh của một tình yêu có khả năng chiến thắng mọi sự, bởi vì trong tất cả điều này chỉ tình yêu mới có thể chiến thắng! Một lần nữa chúng ta phải mơ giấc mơ về người trẻ. Chúng ta phải đặt mình trong trạng huống đó vốn làm chúng ta có thể chiến thắng nỗi sợ nào đã ngăn cản [giấc mơ đó] trở thành thực tại. Nguyện xá, trung tâm trẻ, trường học, trung tâm huấn nghiệp, công cuộc xã hội, giáo xứ: mỗi công cuộc chúng ta phải cho phép mình được ùa ngập bởi tâm hồn sống động, quảng đại và hồi sinh của từng người trẻ vốn biến đổi những ngôi nhà (những bức tường câm nín) thành những không gian của sự sống (của đời sống giới trẻ). Chúng ta muốn sự sống ấy! Đó là chính sự sống cứu chúng ta! Chúng ta lắng nghe người trẻ kêu than; họ xin ta hiện diện, chú tâm, đồng hành và sẵn lòng. Họ cũng xin chúng ta tỏ cho họ khuôn mặt chân thật của Thiên Chúa. Nếu chúng ta chú ý đến họ, nếu chúng ta lắng nghe họ, họ sẽ mãnh liệt hơn xin chúng ta trước tiên nói cho chúng về vị Đức Chúa này là Đấng làm tươi sáng niềm hy vọng của chúng ta, và là Đấng không cho phép chúng ta thất đảm hay bỏ cuộc (x. 1 Pr 3:15). Chúng sẽ xin chúng ta ban cho chúng “bánh sự sống” vốn nuôi dưỡng “việc chúng ta sống vì chúng” và “việc chúng ta sống giữa chúng”, để khai sinh sự sống mà Chúa muốn ban cho lúc này trong lịch sử. Đó là tin vui của sự phục sinh vốn làm sống lại niềm hy vọng của chúng ta và làm chúng ta nên dân mới cho một thời đại mới. Bởi lẽ thế giới này sẽ kết tận. Và chỉ điều chúng ta yêu mến mới còn lại mà thôi.
6. MỘT GIA ĐÌNH SALÊDIÊNG LÀM CHỨNG CHO NIỀM HY VỌNG
Như chúng ta đã có dịp kinh nghiệm, những hoàn cảnh trói buộc với nạn dịch suốt những tháng qua đã bộc lộ một số dấu chỉ rằng niềm hy vọng đang lu mờ. Nhưng tôi muốn nhấn mạnh và chỉ tới một vài dấu chỉ rằng người ta hiểu đầy đủ vẻ đẹp của niềm hy vọng tin mừng mà chúng ta kinh nghiệm, những dấu chỉ đặt chúng ta trên một lối đường ở đó chúng ta có thể diễn đạt sức mạnh của đoàn sủng Salêdiêng khi đoàn sủng được sống trong hy vọng. Tôi cảm nhận rằng như Gia đình của Don Bosco trong Giáo hội và thế giới đây là chứng từ người ta kỳ vọng nơi chúng ta: khả năng để sống trong niềm hy vọng.
Một vài đề xuất để tiếp tục lối đường này.
6.1. Chúng ta hãy tái khám phá “đức tin và đức cậy cùng nhau đi tới”.[22]
Cam kết: chúng ta hãy bắt chước Don Bosco và khả năng lớn lao của ngài đối với việc tán dương những thiếu niên của ngài để sống cuộc đời mình như một sự cử hành và “đức tin như niềm hạnh phúc”.[23]
Tất cả chúng ta không được nâng đỡ bởi những ý tưởng trừu tượng và những lời hứa đẹp đẽ, nhưng bởi hy vọng được đặt nền trên kinh nghiệm về tình yêu Thiên Chúa được đổ xuống trên chúng ta qua Thánh Thần là Đấng chuyển động mọi sự hướng tới thiện hảo.
Nhưng niềm hy vọng không tiến tới một mình. Để hy vọng chúng ta cần có đức tin. Đức cậy Kitô hữu làm cho đức tin nên gan dạ (táo bạo), có thể chịu đựng những cú sốc cuộc đời; nó cho phép chúng ta nhìn vượt quá mọi chướng ngại, nó mở mắt chúng ta và cho phép chúng ta đặt cuộc đời và lịch sử của mình trong một lời giải thích được làm trong ánh sáng của Thiên Chúa cứu độ. Vì thế, niềm hy vọng chờ đợi chính tặng phẩm sự sống mọi ngày, chờ mong Thiên Chúa hiện diện, một Thiên Chúa là Cha (Abba), mật thiết và hữu vị. Ngài là một Thiên Chúa quan tâm và lắng lo đến vận mệnh chúng ta và đặt mình trên lối đường chúng ta với sự kiên nhẫn và xót thương của Ngài. Khi chúng ta nhận biết mình thật nghèo khó và mỏng dòn, thì Thiên Chúa ban cho chúng ta trái tim của Ngài. Sự nghèo khổ cá nhân và cộng đoàn gặp gỡ trái tim hiền phụ của Ngài khiến cho lòng thương xót tỏa sáng.
Vì thế, ý thức chúng ta mỏng dòn cũng như trách vụ giáo dục và đào tạo những con người ngày nay thật khó biết bao, thì hơn bao giờ hết chúng ta cần phải là những người gieo trồng niềm hy vọng, cổ xúy niềm hy vọng chân chính, những người thì thầm [vào tai người trẻ] cùng niềm hy vọng này. Don Bosco đã làm điều này một cách đam mê song lại hầu như tự nhiên. Và chúng ta được can dự vào điều này bởi vì chúng ta thật sự tin rằng chính niềm hy vọng đỡ nâng cuộc đời, chăm sóc đời sống và bảo vệ sự sống. “Nó là điều thần linh nhất mà có thể hiện hữu trong sức nóng của nhân loại.”[24] Trong bài giáo lý này Đức Thánh Cha quy chiếu tới thi hào người Pháp nổi tiếng là Charles Péguy. Ông để lại cho chúng ta những trang rất đẹp về niềm hy vọng. Một trong những trang đó ông viết cách thi thơ rằng không phải đức tin của con người, thậm chí chẳng phải đức ái của họ sẽ làm cho Thiên Chúa ngạc nhiên. Điều thật sự làm Ngài kinh ngạc và chuyển động Ngài chính là niềm hy vọng của con dân Ngài. Ông viết: “Những đứa con nghèo khổ đó nhìn thấy biết bao điều đang diễn ra và tin rằng sáng mai chúng sẽ tốt hơn”.
Với loại tin tưởng này như những nhà giáo dục và những người đồng hành với các gia đình, dân chúng bình dân và dân Thiên Chúa nói chung, tôi mời gọi anh chị em: chúng ta đừng bao giờ mất niềm hy vọng; chúng ta hãy vun trồng một nhãn quan về đời sống vốn giầu có trong niềm hy vọng, và không bao giờ để nó chết đi trong lòng chúng ta. Chúng ta hãy là những ngọn đèn sáng vốn mời gọi hy vọng xuyên qua chứng từ về cách chúng ta sống. Chúng ta hãy chuyển giao niềm hạnh phúc trong cách chúng ta đơn giản nhưng chân chính sống đức tin của mình.
6.2. Chúng ta hãy học biết cầu nguyện là trường dạy hy vọng.[25]
Cam kết: Chúng ta hãy hành trình với người trẻ và gia đình họ bằng cầu nguyện, học để cầu nguyện tốt hơn và thao dợt niềm hy vọng bằng cách cầu nguyện ngày một tốt hơn.
“Một khung cảnh cốt yếu đầu tiên để học hy vọng là cầu nguyện.”[26]
Một đặc nét của linh đạo Salêdiêng chúng ta là tri nhận Thiên Chúa thật rất gần gũi, rất hiện diện trong những biến cố. Trong sự giản đơn của mình, “với cõi lòng”, chúng ta có thể đối thoại với Ngài, một cuộc đối thoại đơn sơ, như của đứa con thơ.
Như những phần tử của Giáo hội, chúng ta ý thức rằng như Giáo hội, chúng ta được sinh ra trong cầu nguyện và cầu nguyện nâng đỡ sự tăng trưởng của Giáo hội và của chúng ta nữa. Cầu nguyện là một trường dạy hy vọng. Bằng cách tỏ bày chúng ta thật mỏng dòn trong cuộc gặp gỡ hữu vị với Tình Yêu, chúng ta học để chính mình được Ngài yêu mến. Tối hậu, chúng ta được gọi để phát triển một bầu khí tin tưởng nội tâm vào Chúa, trao phó chính mình cho Ngài như trung tâm của mọi sự. Chính Ngài làm cho việc sống sung mãn thành có thể được. Vì vậy, chúng ta hãy đặt tư tưởng, ước muốn, hoạt động, đau khổ, hy vọng, mơ ước vào trong lòng Thiên Chúa, soạn thảo chúng trong lòng Ngài.
Đời sống thiêng liêng được nuôi dưỡng bởi cầu nguyện thì tạo thống nhất, nó trao ban ý nghĩa cho các biến cố, ý nghĩa cho những việc khác nhau chúng ta làm, kinh nghiệm và với cầu nguyện chúng ta khám phá ý nghĩa sự nhưng không của đời sống, của cuộc đời chúng ta và cuộc đời của những người được trao cho chúng ta. Viễn cảnh cầu nguyện này như một tặng phẩm thì cốt yếu cho hành trình thiêng liêng, biết rằng mọi sự được Chúa ban cho chúng ta.
Trong Thông điệp Đức Bênêđictô XVI ban cho Giáo hội có một số gương sáng cụ thể của niềm hy vọng trong cầu nguyện chẳng hạn kinh nghiệm của vị Hồng y Việt Nam Nguyễn Văn Thuận; suốt 13 năm ngục tù – chín năm biệt giam, trong một tình trạng nhân bản vốn đã từng là một tình trạng trong đó bất kỳ ai đã tuyệt vọng lắng nghe Thiên Chúa, có thể thưa chuyện với Ngài – chính sức mạnh của đức cậy mới làm cho ngài có thể trở thành một chứng nhân chân chính của đức cậy, sau khi được ra khỏi ngục tù, “làm chứng cho đức cậy vĩ đại vốn không phai tàn, ngay cả trong những đêm tối cô đơn.”[27]
Như gia đình của Don Bosco, Gia đình Salêdiêng, chúng ta sẽ lấy những bước quan trọng nếu, trên tất cả các cành của cây xum xuê hoa lá này luôn được Thánh Thần yêu mến, chúng ta tiến tới trong trường dạy hy vọng được sinh ra từ cầu nguyện và nếu chúng ta cũng hành trình sánh bên với giới trẻ và những người khác.
6.3. Chúng ta hãy tăng trưởng bằng cách sống với một cảm thức về sự nhọc mệt của đời sống hằng ngày.
Cam kết: chúng ta hãy giúp giới trẻ và gia đình họ, và Dân Chúa, khám phá những tặng phẩm mà Chúa ban cho chúng ta, không phàn nàn, khi đề xuất những mục tiêu vốn tán dương chúng và lấy đi sự đơn điệu và tầm thường.
Chúng ta hãy làm cho đời sống hằng ngày, dẫu nhọc nhằn và mỏi mệt, thành một cơ hội giá trị để trải nghiệm rằng có một Tình Yêu vốn vượt quá chúng ta và với ý thức rằng công việc chúng ta thì không hờ hững trong mắt Thiên Chúa và vì thế cũng không hờ hững đối với sự phát triển sự sống, đời sống chúng ta và lịch sử mà chúng ta cố gắng xây dựng và Nước Thiên Chúa mà chúng ta muốn giúp xảy ra.
Tôi tin rằng đây có thể là một chân trời tráng lệ để giáo dục tới niềm hy vọng. Trước hết vì sự chắc chắn đến từ đức tin, vốn xác quyết rằng Thiên Chúa không chỉ không cho phép mình bị vượt mặt trong sự quảng đại, nhưng ngài luôn hành động và gây ngạc nhiên, ngay cả giữa những khó khăn của chúng ta.
Những điều ngoại thường xảy ra chỉ khi chúng ta bắt đầu kinh nghiệm những điều thông thường nhỏ bé; cuộc sống hằng ngày, đời sống của mọi Kitô hữu, được tạo nên bằng những cử chỉ lặp đi lặp lại, lao nhọc và không quá nhiều cảm thức mãn nguyện, nhưng nó cũng được tạo nên bởi những niềm vui bị dịu bớt dù mật thiết, những gặp gỡ thật sự, và những ngạc nhiên làm cho tâm hồn sững sờ.
Ngày tháng trôi qua đòi phải kiên nhẫn trở lại với chính mình, một ý thức về chính đời sống của mình. Niềm hy vọng và kiên nhẫn là hai thái độ ta làm chứng cho, xét như những Kitô hữu trong thế giới chuyển động mau lẹ. Sợ hãi tăng nhanh trong xã hội chúng ta cũng do sự kiện rằng chúng ta mất đi cảm thức chờ đợi, và vì thế mất đi cảm thức kiên nhẫn và hy vọng. Vì lẽ này, hy vọng và kiên nhẫn được liên kết mật thiết với nhau, và hành vi hy vọng đã góp phần vào việc chiến thắng thời gian thử thách. Điều này là có thể được cũng bởi vì tinh thần Salêdiêng chúng ta có “một sự tin tưởng tự nhiên” độc đáo vốn dẫn chúng ta tin tưởng vào những nguồn lực tự nhiên và siêu nhiên của mọi cá nhân, cách riêng của mọi người trẻ; điều này khiến chúng ta không than vãn thời đại chúng ta sống, nhưng trân trọng những giá trị trong thế giới và trong lịch sử (kể cả những thời buổi khó khăn này), và để “nắm vững điều gì là tốt” (1 Tx 5:21). Thực thế, chúng ta chia sẻ niềm tin đó với Hồng y Nguyễn văn Thuận rằng thói quen phàn nàn giống như một bệnh dịch lây lan mà triệu chứng của nó là bi quan, mất bình an, sợ hãi và mất niềm đam mê sống vốn đến từ việc được kết hiệp với Thiên Chúa.
Don Bosco đã kinh nghiệm rằng không gì có thể bù trừ cho giá trị của những tương giao chân chính, của trải nghiệm được yêu mến, của việc cảm nhận là thành phần của một gia đình, được thoải mái. Những tương giao này là một hình thức che chở quyền uy khi đối diện với nghèo khổ và sự lẻ loi của các thiếu niên ngài. Thực thế, ngài là vị thầy trong việc tái khám phá bản chất cụ thể của hạnh phúc trong những việc nhỏ bé, trong việc chú ý tới mọi người, tỏ lộ kho tàng Hệ thống Dự phòng của chúng ta được bảo tồn biết bao trong những gặp gỡ tình cảm và trong việc đảm bảo những mối dây chặt chẽ. Những cử chỉ nhỏ bé đôi khi bị mất trong sự vô danh của đời sống hằng ngày; tuy nhiên, những cử chỉ dịu dàng, yêu mến, xót thương thật quyết liệt và quan trọng cho niềm hy vọng của người khác. Chúng là những cử chỉ thân quen chú ý đến từng chi tiết và những chi tiết của mọi ngày và chúng đảm bảo rằng cuộc sống có ý nghĩa và giữa chúng ta có hiệp thông và thông giao.
6.4. Chúng ta hãy sống hy vọng cách riêng trong những lúc khó khăn và mất mát.
Cam kết: Chúng ta hãy để mình được Thiên Chúa giáo dục. Chúng ta hãy tin tưởng Ngài cách riêng vào những lúc tăm tối.
Thánh Têrêsa Avila, một vị chiêm niệm vĩ đại, nhận biết rằng sự khô khan là lời Thiên Chúa mời gọi “tiến lên phía trước”.
Chúng ta đều trải qua những lúc khó khăn và mất mát trong cuộc đời. Cách này cách khác chúng ta được gọi để chính mình chấp nhận một vài kinh nghiệm đau thương và khó khăn theo nhân loại. Đôi khi những ngày tháng chúng ta, những hoạt động chúng ta, lời cầu nguyện chúng ta và tất cả đời sống hằng ngày chúng ta, có thể xem ra bất ngờ rỗng tuếch, buồn tẻ.
Nhưng với đau khổ và đau thương hiện có nơi mọi cuộc đời con người, chúng ta được ngạc nhiên và niềm hy vọng lay mạnh. Thực vậy, “sự vĩ đại của nhân loại chính yếu được xác định bởi sự tương giao của nó với đau khổ và với những ai đau khổ.”[28]
Lúc này lúc khác, đau khổ và đau đớn dường như là thiết thân với cuộc sống mọi người. Đức Giêsu không yêu đau khổ, cũng chẳng hề biện chính nó. Thực vậy, khi gặp những người được ghi dấu bởi đau đớn, ngài động lòng và thường chữa lành người bệnh, cho thấy rằng đó không phải là ý Chúa gì cả. Đối diện với điều này, thay vì rút lui thụ động vào chính mình, hoàn toàn mệt nhọc và nản chí, chúng ta được yêu cầu để vun trồng can đảm, mà trong đời sống luân lý và thiêng liêng, được chỉ ra bởi hạn từ ơn sức mạnh.
Thực thế, sức mạnh không thể thiếu này cho phẩm chất đời sống được liên kết với ý thức về đức tin.
Nhiều tín hữu được nhận biết chính trong những thời khắc khó khăn và đau khổ nhất của họ, khi họ xem ra bị chất nặng bởi những vấn đề lớn hơn chính họ. Những thử thách này không được giải thích như những rủi ro tình cờ, nhưng như một thời khắc thanh luyện cần thiết và một lời mời từ bỏ những tiêu chuẩn được thừa nhận cho đến nay, để có một kinh nghiệm mật thiết hơn về Thiên Chúa, cho phép mình được Ngài giáo dục và bằng cách này cũng chu toàn sứ mệnh nhận được. Chúng ta được yêu cầu để bước đi trong tin tưởng, ngay cả trong những thời khắc đen tối.
Là những tín hữu, chúng ta thâm tín rằng chỉ Thiên Chúa có quyền lực biến đổi những thời khắc khó khăn cực độ của cuộc sống chúng ta thành niềm hy vọng vững chắc rằng đau khổ, đau thương và nỗi buồn của chúng ta không vô ích hay vô dụng.
Thật như thể cá nhân thấy mình trước một ngã tư ở đó họ phải quyết định xem bỏ cuộc hay trái lại để cho những năng lực nhân linh và thiêng liêng mới trồi hiện. Trong trường hợp sau có đấu tranh, căng thẳng, xung đột nhưng chúng thật vô sinh; chúng ta được gọi để giữ vững niềm hy vọng trong những giờ đen tối bởi vì Tin mừng luôn công bố tin vui: sự sống có thể bắt đầu lại, chúng ta luôn có thể được sinh lại. Người xưa thường nói: “Spes ultima dea“, “Niềm hy vọng là cái cuối cùng phải chết.” Niềm hy vọng là đồn lũy cuối cùng của sự sống. Nó như ánh sáng lúc hoàng hôn: nó vẫn điều hành để ban sự sống cho những đối tượng trước khi chúng hòa chìm vào bóng đêm và cho phép chúng ta thấy đường về nhà trước khi đêm tối ngự xuống và mọi sự bọc trùm trong bóng tối.
6.5. Niềm Hy vọng như dứt khoát trở về với người nghèo và bị loại trừ
Cam kết: Trong gia đình chúng ta sự trung thành với Chúa trong Don Bosco trên hết trải qua sự chọn lựa ưu ái dành cho người nghèo nhất, người bị bỏ rơi nhất và bị loại trừ.
Đây là lý do tại sao theo đặc sủng, ngày nay hơn bao giờ hết, chúng ta được kỳ vọng để phân biệt chính mình như Gia đình Salêdiêng bằng sự chọn lựa nguyên thủy đối với người nghèo và những người bị loại trừ, những kẻ bị vứt bỏ, những kẻ bị bỏ rơi, những người không có tiếng nói và những người không có phẩm giá. Đối với chúng ta, không có cách khác. Sự trung tín với Chúa trong Don Bosco đòi chúng ta phải nhận biết chính mình trong nỗi đau của những người khác.
Trong sự hiệp thông trọn vẹn với truyền thống và lời dạy tinh tuyền nhất của Giáo hhội, từ các giáo phụ Latinh và Hy lạp đầu tiên tới những giáo hoàng mới đây nhất, chúng ta không thể không có trách nhiệm với thế giới này và với đời sống của từng người. Mọi sự bất công chống lại người nghèo là một vết thương mở toang hoác vốn tấn công rõ ràng phẩm giá chúng ta (mặc dù chúng ta không tin như thế). Chúng ta đừng bao giờ quên rằng chúng ta không sống chỉ cho chính mình. Chính vì thế hy vọng làm cho đức ái nên kiên trì. Đức Giêsu mời chúng ta tới tình yêu cứng đầu này, để giữ trí lòng chúng ta rộng mở bao có thể cho tác động của Ngài vốn xảy đến bất ngờ như những tình huống tiêu cực mà chúng ta gặp; để trở nên và là “bệnh viện dã chiến” hiệu quả cho tất cả mọi người và cách riêng những người trẻ bị thương. Điều này đòi chúng ta phải can đảm, tin tưởng và cam kết nhiều hơn. Đây không phải là lúc để “gác mái chèo vào trong thuyền”!
Như một gia đình tôn giáo sinh ra từ trái tim mục tử của Don Bosco, chúng ta là “niềm hy vọng cho những ai không có hy vọng”: những người trẻ thiếu thốn nhất và bị thương tổn nhất ở tận tâm điểm chú ý của Thiên Chúa, và họ luôn phải là những người thừa hưởng đặc ưu của chúng ta.
Đối với chúng ta, họ không phải là một “bức tường”, song là một “cánh cửa”: điều người nghèo dạy chúng ta là thẩm quyền của những kẻ đau khổ và bị gạt ra bên lề. Chúng ta hãy cam kết để mang niềm hy vọng vào trong tâm hồn của những người này, để ban cho họ sự an ủi, để nâng cao những người yếu đuối và thiếu thốn, để đáp lại những nhu cầu nhân bản và thiêng liêng khác nhau vốn thách đố chúng ta mọi ngày. Niềm hy vọng dẫn hướng đạo đức và hành động. Nơi đây, niềm hy vọng Kitô hữu khác với thứ lạc quan hàm hồ – như tôi đã nói.
Đức Giáo hoàng Phanxicô nói cho chúng ta: chúng ta đừng bị đánh cắp mất niềm hy vọng, hay chúng ta đừng giết chết những dấu chỉ hy vọng khác nhau và sự tái sinh vốn trồi hiện từ thế giới. Thực vậy, biết bao người hạnh phúc để yêu Đức Giêsu bằng cách phục vụ ngài nơi người nghèo, biết bao người quảng đại và thương cảm cung cấp cho chúng ta những lời dạy quý báu được diễn đạt qua cuộc đời họ! Chúng ta tạ ơn Chúa vì những gương sáng này về một cuộc sống nhất quán và yêu thương. Những người nam người nữ vì người nghèo, một dấu chỉ về niềm hy vọng mà Chúa đã đặt trên lối chúng ta đi: họ là những cuộc đời tiêu hao và trao ban cho anh chị em mình bởi những con người “bình thường” song anh hùng, một sự anh hùng đơn sơ song vững như đá, được đặt nền trên Tin mừng được sống và công bố.
6.6. Nhận biết chính mình trong nỗi đau của kẻ khác
Cam kết: ngày nay trung thành với Don Bosco, người cha của Gia đình Salêdiêng chúng ta, có nghĩa là tích cực ở bên những người chịu bất kỳ loại bất công nào.
Đức Giáo hoàng Phanxicô viết trong Evangelii Gaudium: “Điều này nguy hiểm và tác hại biết bao, vì nó làm chúng ta mất đi sự kinh ngạc, sự khích động và nhiệt tâm đối với sống Tin mừng của tình huynh đệ và công bằng!”[29] Và điều liên quan nhiều đến những bất công vốn xuất phát từ những hệ thống kinh tế vốn là nguyên nhân của nhiều sự nghèo khổ, cũng như với mọi loại đau khổ của con người.
Khi đọc Tin mừng, ta không chút nghi ngờ rằng kinh tế và của cải phải phục vụ con người, cách riêng những người sống trong những điều kiện nghèo khổ thực sự. Vì thế, một Kitô hữu có một lương tâm xã hội chân chính và một cảm thức về công bằng, và thậm chí hơn như thế vì chúng ta những người được thánh hiến và giáo dân của Gia đình Don Bosco, không thể chấp nhận một hình thức kinh tế chỉ dựa trên “luận lý của sự tăng trưởng” mà thôi (được hy vọng như thế sau đại dịch này), nếu đây là nguyên nhân chắc chắn làm cho nghèo khổ và người nghèo gia tăng: hai thực tại luôn đi đôi với nhau.
Vì vậy nói không với một kinh tế loại trừ là nói không với bất kỳ sáng kiến chính trị và kinh tế nào bỏ quên những kẻ yếu đuối nhất. Các Kitô hữu và những thành viên của Gia đình Salêdiêng phải cảm thấy bất an trong trạng huống này. Đối diện với những thực tại này, người ta không thể còn “trung lập” hay “không có ý kiến”. Phẩm giá của anh chị em chúng ta đang lâm nguy và chúng ta chắc chắn phải “thoát ra” cái bệ an toàn của mình để nhìn vào thực tại của họ không chút xấu hổ. Đây là điều mà Chúa Giêsu đã làm, mặc dù ngài được coi là không đúng xét theo xã hội và chính trị.
Và mặc dù tôi biết rằng điều tôi nói sau này sẽ minh chứng là không thoải mái cho chúng ta – đối với tôi trước hết – tôi tin vào lương tâm rằng đối với lương tâm của mình, chúng ta phải cảm thấy không chịu nổi nỗi đau mà những người khác trải nghiệm và chuyển nó thành tình trạng của những người vô gia cư, di dân cưỡng bức, những người mà “không còn quan trọng nữa” chiến tranh, tấn công, bách hại vì những động cơ chủng tộc hay tôn giáo, lạm dụng tình dục, buôn bán người hay những bộ phận cơ thể, mạng lưới đĩ điếm, những vị thành niên bị bỏ rơi, những lính chiến trẻ em: cả một dòng thác vô tận gồm những thực tại đau buồn.
Điều này là bởi vì chúng ta yêu thế giới kỳ diệu này trong đó Thiên Chúa đã đặt chúng ta vào và bởi vì chúng ta yêu nhân loại mà chúng ta thuộc về – với những loại thảm kịch mà tôi vừa miêu tả và với nỗ lực để thấy rằng không có gì dường như phải thay đổi tận căn – bởi vì chúng ta cũng yêu những khát khao và hy vọng và trái đất như ngôi nhà chung của chúng ta, bởi vì đây là cái hôm nay của chúng ta, cái hôm nay của thế giới chúng ta sau đại dịch…. Chính bởi vì tất cả điều này, đây là một cơ hội quý báu để xác định rõ ràng vị trí chính mình cũng như để giáo dục người trẻ chúng ta trong sự cam kết xã hội và chính trị theo ánh sáng Tin mừng và niềm hy vọng nó chiếu tỏa.
6.7. Hoán cải tới niềm hy vọng là tin vào kế hoạch của Tin mừng.
Cam kết: Vì lẽ này, như Gia đình Salêdiêng của Don Bosco, chúng ta không thể không tỏ lộ ai là lý lẽ cho niềm Hy vọng của chúng ta, Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô và Tin mừng ngài.
Trong những khủng hoảng lớn nhất rất nhiều sự chắc chắn biến mất, “những sự chắc chắn” mà chúng ta nghĩ mình đã có, những ý nghĩa được gán cho mà trong thực tế biến thành không khả tín. Nhưng thực thế, khi những triết lý có tính duy cơ hội hay tạm thời và tư tưởng thất bại thì những giá trị lớn lao của Tin mừng và chân lý của nó vẫn còn lại. Những giá trị Tin mừng không biến mất, chúng không trở thành “lỏng loét”, chúng không biến mất. Vì lẽ này, như Gia đình Salêdiêng của Don Bosco chúng ta không thể bỏ cuộc cho thấy điều chúng ta tin tưởng.
Loan báo Tin mừng đối với chúng ta phải là một niềm vui hiện sinh và chân thật, được đâm rễ trong Mầu nhiệm Đức Kitô, Thiên Chúa nhập thể, chết và phục sinh, Đấng thấu nhập phần sâu thẳm nhất của thực tại con người. Tin mừng là sứ điệp niềm vui tuyệt đối vốn phú ban sức mạnh và sự táo bạo để vượt thắng mọi nỗi buồn sầu (x. Rm 9:2): Tin mừng là sinh khí của niềm hy vọng: hy vọng vào Đức Chúa đang ở giữa chúng ta và tiếp tục đến gặp chúng ta; một niềm hy vọng khai sinh niềm vui, một niềm hy vọng khích lệ chúng ta và khai mở chúng ta vào một sự cam kết cụ thể hỗ trợ những người khác và trong lịch sử, một niềm hy vọng làm chúng ta, như Gia đình của Don Bosco, cảm nhận rằng chúng ta là trung gian của Thiên Chúa cho những người khác, những dấu chỉ và người mang tình yêu của Ngài: niềm hy vọng mở rộng chúng ta tới sự sống đời đời vốn đã bắt đầu trên trần rồi.
“Đức tin cũng có nghĩa là tin vào Thiên Chúa, tin rằng Ngài thật sự yêu mến chúng ta, Ngài hằng sống, Ngài có thể nhiệm mầu can thiệp, Ngài không bỏ rơi chúng ta và Ngài mang đến điều thiện hảo từ điều xấu bởi Ngài sáng tạo và quyền năng vô biên… Chúng ta hãy tin vào Tin mừng khi Tin mừng nói cho chúng ta rằng vương quốc Thiên Chúa đã hiện diện trong thế giới này và đang tăng trưởng, ở đây đó, và theo những cách thức khác nhau.”[30]
Chúng ta phải được khích lệ ra sao khi nghĩ rằng không ai trong chúng ta hy vọng vào chính mình, nhưng từng người chúng ta có thể là một tiếng vọng của niềm hy vọng cho những người khác, rằng niềm hy vọng chân chính vốn là thực tại thần linh nhất có thể hiện hữu giữa lòng nhân loại.
Bởi vì “nếu Đức Giêsu đã chiến thắng thế gian, Ngài có thể chiến thắng nơi chúng ta tất cả những gì đối nghịch sự tốt lành. Nếu Thiên Chúa ở với chúng ta, không ai sẽ đánh cắp khỏi chúng ta nhân đức đó mà chúng ta tuyệt đối cần để sống. Không ai đánh cắp khỏi ta niềm hy vọng.”[31]
6.8. Như Gia đình Salêdiêng đảm nhận một sự cam kết cụ thể
Chúng ta hãy phân phát và đọc (một mình, như một gia đình, trong nhóm) Thông điệp mới nhất, Fratelli tutti; nó đặt tình huynh đệ ở tâm điểm của mọi sự. Nó cống hiến cho chúng ta một suy tư tốt đẹp về cách thức chữa lành thế giới, sửa lại căn nhà chung khỏi sự tàn phá/hư hoại nhân bản và môi trường, và giảm thiểu những hệ quả của sự bất bình đẳng xã hội và kinh tế đang gia tăng. Với Đức Giáo hoàng, chúng ta chắc chắn rằng chỉ như anh chị em, chúng ta sẽ thành công trong việc bảo vệ gia sản mà Đấng Tạo Hóa đã đặt vào tay chúng ta, khi vượt thắng cám dỗ phân rẽ và áp đảo lẫn nhau. Chỉ cùng nhau chúng ta xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn vốn trao ban niềm hy vọng cho những thế hệ tương lai.
6.9. Một chân lý được khám phá như hoa trái của Hoa thiêng này
Rõ ràng nhắm để lại một ký ức rất đặc biệt, tôi kết luận bài bình giải Hoa thiêng 2021 với một ít hàng vốn diễn đạt rất đúng điều tôi vừa chia sẻ trong vài trang giấy trên. Tôi mời gọi anh chị em nội tâm hóa nó, trước khi tôi quy chiếu cuối cùng tới Mẹ Maria, Đấng chờ đợi sinh người Con Yêu dấu của mình, chìm ngập trong kế hoạch cứu độ lớn lao không chút giả bộ nào.
“Chúng ta các Kitô hữu sống bởi niềm hy vọng: cái chết chỉ là lời áp chót, nhưng lời sau cùng mới thuộc về Thiên Chúa, lời của sự phục sinh, lời của sự sống sung mãn và vĩnh cửu. Khi chúng ta phó mình để tin vào Thiên Chúa và tin vào Đấng mà chúng ta có niềm xác tín vốn ban cho ta sự thanh thản, nghĩa là, mọi sự không ở trong tay chúng ta, nhưng trong tay Chúa. Các Kitô hữu nắn hình cuộc đời mình không bằng sức riêng mình, nhưng với sức mạnh Thánh Thần. Trong những lúc không chắc chắn, chúng ta phải tin cậy phó mình để ngài dẫn dắt.”[32]
7. ĐỨC MARIA LÀNG NADARET, MẸ THIÊN CHÚA, NGÔI SAO HY VỌNG
Lạy Mẹ Maria, Mẹ biết rõ tin tưởng và hy vọng nghịch lại mọi hy vọng có nghĩa là gì, khi tin tưởng vào Danh Thiên Chúa.
Tiếng “vâng” Mẹ thưa lên Thiên Chúa thức tỉnh lại mọi niềm hy vọng cho nhân loại.
Mẹ kinh nghiệm sự bất lực và cô đơn khi sinh người Con của Mẹ; Mẹ giữ kỹ trong lòng lời loan báo rằng một lưỡi gươm đâm thâu lòng Mẹ (x. Lc 2:35); Mẹ đau khổ nhìn thấy Con của Mẹ thành “dấu chỉ chống báng”, bị hiểu lầm, bị chống đối.
Mẹ biết sự thù nghịch và chống đối nhắm vào Con của Mẹ cho tới khi dưới chân thập giá trên đồi Golgotha, Mẹ hiểu rằng niềm Hy vọng sẽ không chết. Chính vì thế Mẹ vẫn ở lại với các môn đệ như một người mẹ. – “Hỡi bà, đây là con bà” (Ga 19:26) – như người Mẹ của niềm Hy vọng.
“Lạy Mẹ Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ chúng con, xin dạy chúng con tin, hy vọng và yêu mến với mẹ. Xin tỏ cho chúng con đường tới Vương quốc Ngài!
Lạy Mẹ là ngôi sao Biển, xin tỏa chiếu trên chúng con và dẫn dắt chúng con trên đường.”[33]
Amen.
Fr Ángel Fernández Artime, S.D.B.
Bề Trên Cả
Roma, ngày 25 tháng Mười Hai năm 2020
Ngày Chúa Giáng Sinh
[1] Francis, Christus Vivit, 72.
[2] G. Colombero, La Malattia, una stagione per il coraggio [Bệnh tật, một Mùa để Can đảm], Paoline, Rome 1981, p. 66.
[3] Chỉ trích dẫn một vài người đó mà chúng ta tìm thấy trong thần học và lịch sử triết học, chúng ta bắt đầu với Thánh Phaolô, Thánh Augustinô thành Hippo, Thánh Gioan Thánh giá, Luther, Bultmann, và J. Moltmann. Và rồi R. Descartes, E. Kant, Baudelaire và M. Heidegger, G. Marcel và J.P. Sartre, Le Senne, Bollnow; và một vài người Tây Ban Nha như Miguel de Unamuno, Ortega y Gasset và văn sĩ vĩ đại Manuel Machado.
[4] Bernard of Chiaravalle, Sermons on the Canticle of Canticles, XXVI, 5 in PL 183, 906.
[5] Như chúng ta cũng đọc trong một diễn đạt nổi tiếng của Christian Duquoc trong đó ông xác quyết tính tự quản toàn vẹn của lịch sử.
[6] Benedict XVI, Spe Salvi, 1.
[7] Ibid, 27
[8] Francis, The Holy Father’s meditation at the extraordinary moment of prayer at the time of the pandemic, Vatican City, 27 March 2020.
[9] Francis, General audience, Wednesday, 23 August 2017.
[10] Cf. Benedict XVI, Spe Salvi, 2.
[11] Đây là tựa để Đức Giáo hoàng Bênêđictô chọn cho phần thứ nhất của Thông điệp Spe Salvi của ngài.
[12] J. Moltmann, Experiencias de Dios, Sígueme, Salamanca 1983, pp. 103-104.
[13] BM I, 221-22 [English edition].
[14] G. Bosco, Memorie dell’Oratorio di San Francesco di Sales, in ISS, Fonti Salesiane: Don Bosco e la sua opera, LAS, Roma 2014, p. 1233 [Note: also available in the English edition of Salesian Sources, Bangalore]
[15] Costituzioni e Regolamenti SDB, 21.
[16] Benedict XVI, Spe Salvi, 49.
[17] Francis, Fratelli tutti, 115.
[18] Ibid., 30.
[19] Francis, Fratelli tutti, 32.
[20] Ibidem.
[21] Francis, General audience Wednesday, 20 September 2017.
[22] Ibidem.
[23] 20th Special General Chapter of the Salesians of Don Bosco, no. 328.
[24] Francis, General audience Wednesday, 27 September 2017.
[25] Cf. Benedict XVI, Spe Salvi: tựa đề của phần 1 trong Thông điệp, no. 32.
[26] Benedict XVI, Spe Salvi, 32.
[27] Ibidem.
[28] Francis, “Un plan para resucitar” a la Humanidad tras el coronarivus [Một kế hoạch khôi phục nhân loại sau Coronavirus] (PDF), in Vida Nueva Digital, 17 April 2020, p. 38.
[29] Francis, Evangelii Gaudium, 179.
[30] Ibid., 278.
[31] Francis, General audience Wednesday, 27 September 2017.
[32] W. Kasper – G. Augustin, Comunione e Speranza. Testimoniare la fede al tempo del coronavirus, [Communion and Hope: Witnessing to faith at the time of the coronavirus] LEV, Vatican City 2020, p. 121.
[33] Benedict XVI, Spe Salvi, 50.