
LECTIO DIVINA THỨ 3 TUẦN 3 THƯỜNG NIÊN
NGÀY 29-01-2019 : Mc 3, 31-35
“Anyone who does the will of God, that person is my brother and sister and mother” | “Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta” | ||
1) Opening prayer | 1) Kinh khai mạc | ||
All-powerful and ever-living God, direct your love that is within us, that our efforts in the name of your Son may bring mankind to unity and peace. We ask this through our Lord Jesus Christ, your Son, who lives and reigns with you and the Holy Spirit, one God, for ever and ever. Amen. | Lạy Thiên Chúa Toàn năng và Hằng hữu, xin điều hướng tình yêu Chúa nơi chúng con, để mọi nỗ lực của chúng con nhân danh Con Chúa, có thể đưa nhân loại tới sự hiệp nhất và hoà bình. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Chúa và Chúa Thánh Thần, một Thiên Chúa, đến muôn đời. Amen. | ||
2) Gospel Reading : Mark 3, 31-35 | 2) Bài Tin Mừng : Mc 3, 31-35 | ||
Now his mother and his brothers arrived and, standing outside, sent in a message asking for him.
A crowd was sitting round him at the time the message was passed to him, ‘Look, your mother and brothers and sisters are outside asking for you.’ He replied, ‘Who are my mother and my brothers?’ And looking at those sitting in a circle round him, he said, ‘Here are my mother and my brothers. Anyone who does the will of God, that person is my brother and sister and mother.’ |
Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu và anh em Người đến và đứng ở ngoài, sai người vào mời Chúa ra.
Bấy giờ có đám đông ngồi chung quanh Người và họ trình Người rằng: “Kìa mẹ và anh em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy”. Người trả lời rằng: “Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?” Rồi đưa mắt nhìn những người ngồi vòng quanh, Người nói: “Đây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta”. |
||
3) Reflection | 3) Suy ngắm | ||
• The family of Jesus. The relatives reached the house where Jesus was. Probably they have come from Nazareth. From there up to Capernaum there is a distance of forty kilometres. His mother also comes together with them. They do not enter, but they send a messenger: “Look, your mother and brothers and sisters are outside asking for you! Jesus’ reaction is clear: Who are my mother and my brothers? And he himself responds turning to look toward the crowd who is there around: Here are my mother and my brothers! Anyone who does the will of God, that person is my brother and sister and mother! To understand well the sense of this response it is convenient to look at the situation of the family in the time of Jesus. | * Gia đình Chúa Giêsu. Người nhà đến nhà Chúa Giêsu đang ở. Có thể họ đến từ Nazareth. Từ đó đến Capernaum cách khoảng 40 cây số. Mẹ của Ngài cũng đến với họ. Họ không vào, nhưng cử một người nói với Ngài : “”Kìa, mẹ Ngài và anh em Ngài đang đứng ở ngoài và tìm cách nói chuyện với Ngài”. Phản ứng của Chúa Giêsu thật rõ ràng : “Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?” Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: “Đây là mẹ Ta và là anh em Ta, vì hễ ai làm theo ý Cha Ta trên trời, thì người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta vậy”. Để hiểu ý nghĩa của câu trả lời này, cần phải nhớ đến tình trạng gia đình trong thời của Chúa Giêsu. | ||
• In the Old Israel, the clan, that is, the large family (the community), was the basis for social living together. It was the protection of the families and of the persons, the guarantee of the possession of the land, the principle vehicle of the tradition, the defence of identity. It was the concrete way on the part of the people of that time to incarnate the love of God and the love toward neighbour. To defend the clan was the same as to defend the Covenant. | * Nơi Israel cổ xưa, bộ tộc, tức gia đình rộng lớn (cộng đoàn), là nền tảng cho đời sống xã hội chung. Nó bảo vệ gia đình và con người, bảo đảm cho tài sản đất đai, là nguyên lý gìn giữ truyền thống, bảo vệ căn tính. Đối với dân chúng lúc bấy giờ, đó là nợi nhập thể tình yêu Thiên Chúa và tình yêu người lân cận. Bảo vệ bộ tộc cũng chính là bảo vệ Giao Ước. | ||
• In the Galilee at the time of Jesus, because of the system established during the long periods of government of Herod the Great (37 BC to 4 BC) and of his son Herod Antipas (4 BC to 39 AD), the clan, (the community) was becoming weaker. The taxes to be paid, both to the Government and to the Temple, the debts which were increasing, the individualistic mentality of the Hellenistic ideology, the frequent threats of violent repression on the part of the Romans and the obligation to accept the soldiers and give them hospitality, the ever growing problem of survival , all this impelled the families to close themselves in self and to think only of their own needs. This closing up was strengthened by the religion of the time. For example: the one who gave his inheritance to the Temple, could leave his parents without any help. This weakened the fourth commandment which was the backbone of the clan (Mk 7, 8-13). Besides this, the observance of the Norms of purity was a factor of marginalization for many persons: women, children, Samaritans, foreigners, lepers, possessed persons, tax collectors or Publicans, the sick, mutilated persons and paraplegic persons. | * Ở Galilê trong thời Chúa Giêsu, vì hệ thống được thiết lập trong thời ký thống trị lâu dài của Vua Hêrôđê Đại Đế (từ năm 37 cho đến năm 4 trước Công nguyên) và con của ông là Hêrôđê Antipas (từ năm 4 trước Công nguyên cho đến năm 39 sau Công nguyên), bộ tộc (cộng đoàn) đã trở nên ngày càng suy yếu. Thuế má phải đóng, cho Chính quyền cũng như cho Đền thờ, số nợ ngày càng tăng, não trạng cá nhân chủ nghĩa của ý thức hệ Hy lạp, những đe dọa đàn áp từ phía người Rôma, nhiệm vụ phải tiếp đón và nuôi binh lính, vấn đề tồn tại và sống sót ngày càng tăng, tất cả những điều đó thúc ép các gia đình khép mình lại và chỉ nghĩ đến những nhu cầu của mình. Việc khép mình ại được tôn giáo lúc bấy giờ kiện cường. Ví dụ : một người dâng gia tài của mình cho Đền thờ, có thể sẽ để cha mẹ mình không có sự trợ giúp. Điều này làm suy yếu giới răn thứ tư, là xương sống của bộ tộc (Mc 7, 8-13). Bên cạnh đó, việc tuân giữ các Luật về sự trong sạch là tác nhân làm cho nhiều người bị loại trừ : phụ nữ, trẻ em, người Samari, mgười ngoại kiều, người phong hủi, người bị quỷ ám, người thu thuế hay người lính, người bệnh, tàn tật và bất toại. | ||
• And thus, the concern with the problems of one’s own family prevented the persons to meet in community. Now, in order that the Kingdom of God could manifest itself in community living of the people, the persons had to overcome the narrow limits of the small family and open themselves again to the large family, to the Community. Jesus gave the example. When his own family tries to take possession of him, he reacted and extended the family: “Who are my mother and my brothers?”. And he himself gave the answer, turning his look toward the crowd: Here are my mother and my brothers! Anyone who does the will of God, that person is my brother, sister and mother! (Mk 3, 33-35). He crated a community. | * Vì thế, sự bận tâm đối với những vấn đề của gia đình mình ngăn cản người ta gặp gỡ nhau trong cộng đoàn. Bây giờ, để Nước Chúa có thể tỏ hiện trong đời sống cộng đoàn của dân chúng, con người phải vượt qua những giới hạn hẹp hòi của gia đình nhỏ và lại rộng mở cho gia đình rộng lớn, cho Cộng đoàn. Chúa Giêsu cho ví dụ. Khi gia đình Ngài tìm cách bắt Ngài, Ngài phản ứng lai và rộng mở gia đình : “Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta?” Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ mà nói: “Đây là mẹ Ta và là anh em Ta, vì hễ ai làm theo ý Cha Ta trên trời, thì người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta vậy”. Ngài tạo nên cộng đoàn. | ||
• Jesus asked the same thing from all those who wanted to follow him. Families could not close themselves up in self . The excluded and the marginalized had to be accepted in the life with others, and in this way feel accepted by God (Lk 14, 12-14) This was the path to attain the objective of the Law which said “There must, then, be no poor among you” (Dt 15, 4). Like the great Prophets of the past, Jesus tries to consolidate community life in the villages of Galilee. He takes back the profound sense of the clan, of the family, of the community, as an expression of the incarnation of the love toward God and toward neighbour. | * Chúa Giêsu cũng yêu cầu điều đó nơi những người muốn đi theo Ngài. Gia đình không được phép đóng kín mình lại. Những người bị loại trừ và những người sống ngoài lề phải được đón nhận trong đời sống của người khác, và như vậy họ cảm thấy được Thiên Chúa đón nhận (Lc 14, 12-14). Đây là cách thức đạt tới mục tiêu của Luật : “Vì thế, không được phép có người nghèo nơi anh em” (Đnl 15, 4). Như các Đại Sứ ngôn trong quá khứ, Chúa Giêsu tìm cách kiện cường đời sống cộng đoàn nơi các làng mạc ở Galilê. Ngài lấy lại ý nghĩa sâu xa của bộ tộc, của gia đình, của cộng đoàn, để diễn tả tình yêu nhập thể đối với Thiên Chúa và người lân cận. | ||
4) Salesian Constitutions | 4) Hiến Luật Salêdiêng | ||
57. An open community
The Salesian community works in communion with the particular Church. It is open to the world’s values and attentive to the cultural milieu in which it carries out its apostolic work. At one with those among whom it lives, it cultivates good relations with all. Thus it becomes a sign revealing Christ and his saving presence among men, and becomes a leaven giving rise to new vocations after the example of the first community of Valdocco. |
HL 57. Cộng thể rộng mở
Cộng thể Salêdiêng hoạt động trong sự hiệp thông với Giáo Hội địa phương. Cộng thể rộng mở trước các giá trị trần thế và chú tâm tới bối cảnh văn hóa trong đó mình thi hành công việc tông đồ. Liên đới với toàn thể dân chúng trong đó mình sống, cộng thể vun trồng những mối giao hảo tốt đẹp với mọi người. Như thế, cộng thể là dấu biểu lộ Đức Kitô và ơn cứu rỗi của Ngài hiện diện giữa loài người và trở thành men khơi dậy những người mới, theo gương cộng thể đầu tiên tại Valdocco. |
||
5) Personal questions | 5) Câu hỏi cá nhân | ||
• To live faith in the community. What place and what influence does the community have in my way of living faith ? | * Sống đức tin trong cộng đoàn. Cộng đoàn có vị trí và ảnh hưởng nào trong cách sống đức tin của tôi? | ||
• Today, in the large city, overcrowding promotes individualism which is contrary to life in community. What am I doing to counteract this evil? | * Ngày nay, trong thành phố lớn, sự đông đúc cổ xuý chủ nghĩa cá nhân trái với đời sống trong cộng đoàn. Tôi phải làm gì đế chống lại sự xấu này? | ||
6) Concluding prayer | 6) Kinh kết | ||
I waited, I waited for Yahweh, then he stooped to me and heard my cry for help. He put a fresh song in my mouth, praise of our God. (Ps 40,1.3) | Tôi đã hết lòng trông đợi CHÚA, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu. Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới, bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta. (Tv 40, 2.4) | ||
Về Tác Giả và Dịch Giả:
Các bài viết Lectio Divina do nhóm tác giả; Lm. Carlos Mesters, O.Carm. Nt. Maria Anastasia di Gerusalemme, O.Carm., Lm. Cosimo Pagliara, O.Carm. Nt. Maria Teresa della Croce, O.Carm. Lm. Charlò Camilleri, O.Carm. Lm. Tiberio Scorrano, O.Carm. Nt. Marianerina De Simone, SCMTBG và Lm. Roberto Toni, O.Carm., Dòng Cát Minh biên soạn. Bản dịch tiếng Việt do Cô Martha Nhung Trần thực hiện. Tác giả và dịch giả giữ bản quyền.
http://ocarm.org/en/content/lectio/lectio-divina
http://www.dongcatminh.org/calendar-date
Lm. GB. Nguyễn Văn Thêm, SDB bổ sung phần Salêdiêng.